
Tịnh Quang chuyển ngữ
Đạo Phật là gì?
Đây
không phải là một câu hỏi dễ trả lời,
bởi vì Phật giáo bao gồm nhiều tông phái và sự
thực hành, hoặc những gì chúng ta gọi là truyền thống. Những truyền thống này đã phát triển trong những thời điểm khác nhau và các nước khác nhau,
và trong vài mức độ cách biệt nhau. Mỗi tông
phái đã phát triển tính năng đặc biệt mà một người quan sát bình
thường có thể nhận ra được sự khác biệt lớn.
Tuy nhiên, những
khác biệt này thường xuyên bao phủ văn hóa một cách đơn thuần, và trong các trường hợp khác, chúng nó chỉ khác biệt trong sự chú
trọng cách tiếp cận. Trong
thực tế, tất cả
các truyền thống được củng cố bởi
điểm cốt lõi của niềm tin và sự thực hành phổ biến [1]
Phật Pháp
Một
trong những sự
hiểu biết sâu sắc cơ bản đạt được bởi Đức Phật xuyên qua kinh nghiệm của sự giác ngộ của Ngài, là sự phân
tích của ngài
về đau khổ hay bất hạnh. Điều này đã được truyền lại cho
chúng ta trong các hình thức
giảng dạy mà truyền thống được mô tả như Tứ Diệu Đế:
• Chân
lý đầu tiên đó là cuộc sống mang bản chất đau khổ. Hầu hết
các nỗ lực của
con người đều liên
quan đến việc cố
gắng để tránh khổ đau và đạt được
hạnh phúc.
• Chân lý thứ hai, xác định nguyên nhân của đau khổ. Trực tiếp hoặc gián tiếp, tất cả những đau khổ
mà chúng
ta kinh nghiệm được
gây ra bởi tham ái và vô minh. Chúng ta khao khát rất nhiều điều, và sự thiếu hiểu
biết (vô minh) của chúng ta bảo chúng ta tin rằng những điều
này sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
• Chân
lý thứ ba nói rằng chúng ta có thể vượt qua khổ đau
và đạt được sự tự do và an vui của Nirvana
(Niết bàn). Đây là trạng thái đạt
được của Đức Phật, nơi tất cả các đặc trưng mà
chúng ta kết hợp với sự tồn tại này (sinh, tử, di chuyển trong thời gian và không gian,
và cảm giác về
một bản ngã tách biệt) không còn tác dụng.
• Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến chấm
dứt đau khổ bằng Bát chánh đạo, và bao gồm đến sự tu tập của lời nói, hành động,
sinh kế, tư tưởng, sự hiểu biết, nỗ lực, chánh
niệm và tập trung của
chúng ta. Điều này có thể được tóm tắt trong ba nhóm: đạo đức, tập trung / thiền định và trí
tuệ.
Giới điều của hàng Phật tử
Chúng ta
hãy xem
xét đạo đức một cách chặt chẽ, cung cấp nền tảng cần thiết về hành vi đối với sự tu dưỡng
tinh thần và sự phát triển tâm linh có thể xảy ra. Phật tử
bình thường (tức là những người không phải là Tăng Ni) cố gắng sống
theo năm giới
có tác dụng với những lời nguyện và sự bảo đảm mà chúng ta thực hiện cho chính mình. Người xuất gia thì phát nguyện tuân thủ các giới luật nhiều
hơn, bao gồm cả đời sống độc thân. Các bản
dịch tiếng Anh thông thường của năm
giới là:
Tôi cam kết tuân thủ các giới
để tránh:
• Sự giết hại hoặc làm tổn hại đến chúng sinh • Lấy những thứ không thuộc của mình
• Hành vi tình dục sai trái
• Nói lời không thật
• Xử dụng những độc tố tạo nên sự say sưa hoặc mất cảm giác.
• Sự giết hại hoặc làm tổn hại đến chúng sinh • Lấy những thứ không thuộc của mình
• Hành vi tình dục sai trái
• Nói lời không thật
• Xử dụng những độc tố tạo nên sự say sưa hoặc mất cảm giác.
Thực hành năm giới giúp nuôi dưỡng những đức tính tích cực của:
• Lòng từ bi
• Sự rộng lượng và không tham lam
• sự hài lòng
• Tính trung thực
• Tinh thần rõ ràng và chánh niệm.
• Lòng từ bi
• Sự rộng lượng và không tham lam
• sự hài lòng
• Tính trung thực
• Tinh thần rõ ràng và chánh niệm.
Đây
không phải là mệnh lệnh, là những quy giới tu dưỡng mà các Phật
tử tự nguyện thực hiện. Chúng nó được thực hiện không phải vì chúng
ta sợ bị trừng phạt bởi một vị thần nhưng vì lợi ích riêng của
chúng ta và phúc lợi của tất cả
chúng sinh khác. Phật tử tin rằng
tất cả mọi thứ là tùy thuộc vào nhân quả, và tất cả các hành động tạo tác đều
có nghiệp quả. Nếu chúng ta không hành xử theo giới luật,
chúng ta sẽ gây ra đau khổ cho
người khác và cuối cùng cũng làm cho mình không được an vui.
Tình dục Đồng tính và tình dục ngoài hôn nhân
Giới thứ ba của năm giới đề cập đến hành vi tình dục.
Trong truyền thống Phật giáo nguyên thủy
của Phật giáo mà tôi quen thuộc nhất, giới thứ ba có lẽ thể hiện một
cách chính xác hơn là "tôi thực hiện sự kềm
chế đối với giới điều để không đi
theo con đường sai cho sự
khoái cảm tình dục". Điều gì sẽ tạo nên "đi sai đường"
và có bao gồm các hành vi đồng tính luyến ái không? Để xác định điều này, chúng
ta cần phải xem xét các tiêu chuẩn mà các Phật tử được khuyên nên xử dụng trong việc đưa ra bản
án đạo đức. Từ lời dạy của Đức Phật, điều này có thể phân biệt bằng
ba căn
bản mà chúng ta có thể kết
án về hành vi của chính mình:
• chúng ta nên xem xét các hậu quả hành động của
chúng ta, ảnh hưởng của chúng trên chính chúng ta và những người khác
• chúng ta nên xem xét rằng chúng ta sẽ cảm như thế nào nếu những người
khác đã làm điều
tương tự với chúng ta
• chúng ta nên xem xét liệu hành vi này là công cụ đối
với mục tiêu Niết bàn của chúng ta.
Xử dụng các tiêu chuẩn này, các nhà bình luận Phật
giáo thường phán
xét hành vi sai
trái tình dục bao gồm hãm hiếp,
quấy rối tình dục, lạm dụng tình dục
trẻ em, và không
chung thủy với người phối ngẫu của
mình. Rõ ràng, những biểu hiện của hành vi sai trái tình dục có thể áp dụng như nhau đối với hành vi đồng tính luyến ái và quan hệ tình dục khác giới. Giới thứ ba không phải là một mệnh
lệnh cấm chăn gối, cũng không phải sự mô tả đơn giản đối
với hành vi được coi là sai và hành vi
khác được coi là đúng.
Thực tế, đạo đức Phật giáo
đã được mô
tả như vị
lợi, trong đó chúng có một ít liên quan với "thiện" và "ác" và nhiều hành động là
"khéo léo" hơn, tức là dẫn đến một kết thúc tốt đẹp trong mối
quan hệ với các tiêu chuẩn
đã đề cập ở trên và thúc đẩy bằng những ý định tốt (dựa trên tình yêu, sự
rộng lượng và hiểu biết)
[2].
Những
câu nói của Đức Phật, như được
ghi trong kinh điển Pali, tôi không thấy có bất kỳ tài liệu tham khảo rõ ràng
nào về đồng tính luyến ái hoặc hành vi đồng tính
luyến ái. Điều này đã có nghĩa rằng Đức Phật đã không cân nhắc về
xu hướng giới
tính của con người được thể hiện qua thông điệp của Ngài, mà là làm thế nào để thoát
khỏi đau khổ và đạt được giác ngộ. Nếu nó
không đủ quan
trọng để đề
cập đến, đồng tính luyến ái không
thể được coi là một rào cản đối với sự phát triển đạo đức và
tinh thần của con người.
Mặt
khác, giáo lý của Đức Phật không có chủ trương thúc đẩy chúng ta thụ hưởng một cuộc sống theo đuổi chủ nghĩa dục lạc, tình dục hoặc các hình
thứ khác. Trong
khi Đức Phật không phủ nhận
sự tồn tại của việc an hưởng trong thế giới này, Ngài chỉ ra rằng tất cả các niềm vui
thế gian là ràng buộc với đau khổ, và nô lệ với cảm giác thèm khát của chúng ta sẽ đẩy chúng
ta quay trong một cơn lốc của sự thất vọng và thỏa mãn. Mục tiêu của Phật giáo không phải
là để loại bỏ sắc dục, nhưng nhận diện chúng qua sự thực hành có hệ thống của chánh niệm
Một
trong những tính năng của Phật giáo có
thể tạo nên sự quan tâm
cho những người
đồng tính nam và đồng tính nữ là giáo lý không đặt giá trị đặc biệt đối với sự sinh sản. Hôn nhân và sinh
con được xem là tích cực nhưng không có nghĩa là bắt
buộc. Ngược lại, đời sống độc thân là trong hầu hết các truyền thống được coi
là một sự bắt buộc cho những người Phật tử tìm kiếm
trình độ phát triển cao hơn. Tăng và Ni có lời phát nguyện sống độc thân một cách nghiêm ngặt, và thậm chí những
người Phật tử thuần túy phát nguyện sống độc thân trong một thời gian nhất định để theo đuổi sự phát triển về tinh thần và tâm linh. Điều này có nghĩa là
từ quan điểm tôn giáo
không có sự kỳ thị mà là cần
thiết đòi hỏi tiêu
chuẩn chưa
lập gia đình và có con, dĩ nhiên, đây có thể là những áp lực xã hội và văn hóa đè lên điều này.
Sự
mô tả của Phật giáo về mối quan hệ cùng giới
Kinh điển Phật có nhiều ví dụ về các mối quan hệ
tình cảm sâu sắc giữa các thành viên cùng một giới tính. Một
trong những kinh văn phổ biến của kinh điển Phật giáo là kinh Bổn Sanh (Jatakas),
gồm một bộ sưu tập lớn các câu chuyện về cuộc sống của Đức Phật trước khi
Ngài thị hiên cuối cùng trên
trái đất này. Trong Bổn Sanh (Jatakas) liên tục ca tụng tình yêu và sự tận tâm giữa những
người đàn ông, mặc dù điều này không bao giờ là thuộc về bản chất tình dục thái quá. Trong những câu chuyện kể
về Bồ Tát, hay Phật thường được biết như là có một người
bạn nam giới đồng hành hoặc người phục vụ. Các kinh văn khác mô tả cuộc đời của Đức Phật lịch
sử liên quan đến
người bạn đời của Đức Phật và A Nan-người
là vị đệ tử túc trực và là người thị giả riêng của Đức Phật . Một số nhà văn đã
nhìn thấy các
yếu tố đồng
tính trong những văn bản này
[3]. Điều này đủ để nói rằng mối quan hệ yêu thương giữa
những người đàn ông chưa lập gia đình
được hành
xử rất tích cực trong kinh điển Phật giáo.
Thật
không may, điều này không thể được cho rằng người đồng tính ở
các quốc gia nơi Phật tử chiếm đa
số là tự do hơn và
thoát khỏi thành kiến
và phân biệt
đối xử về
đồng tính hơn
so với các nước khác.
Sự phân biệt đã bắt rễ ở khắp mọi nơi, Phật giáo đã bị hấp thụ các
khía cạnh của nền
văn hóa thống trị, và điều này đôi khi gây
thiệt hại cho chính nó. Không phải là đúng
khi nói rằng những người theo Phật giáo được thoát khỏi từ quan điểm thành kiến hơn so với những thuyết khác. Tuy nhiên, rõ ràng trong giáo lý của Đức Phật thì
không có điều nào để kết án người đồng tính luyến ái,
hành vi đồng tính luyến ái. Với tôi thì dường như nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ, đặc biệt là ở các nước
phương Tây, được
thu hút bởi Phật
giáo vì sự khoan dung của chính nó, và sự miễn cưỡng của nó cũng chỉ để tự vẽ ra những lề lối đạo đức nghiêm khắc, tất nhiên dù thế nào tôi không có sự bằng chứng cho điều này.
Kết luận
Từ sự tìm hiểu của tôi về các kinh điển Phật
giáo, và từ câu trả lời của các tu sĩ Phật giáo
mà tôi đã đặt câu
hỏi về vấn đề này, tôi kết luận
rằng, đối với Phật tử, bất kỳ hành động tình dục nào
dưới đây sẽ không phạm vào giới thứ ba
-có sự đồng ý lẫn
nhau,
-không có sự thiệt hại cho bất cứ ai
-không có sự thiệt hại cho bất cứ ai
-với người đã hoàn toàn ly dị
-và ý định của chúng ta là để bày tỏ tình cảm với sự tôn trọng, và cho nhau niềm vui.
-và ý định của chúng ta là để bày tỏ tình cảm với sự tôn trọng, và cho nhau niềm vui.
Điều này sẽ áp dụng không phân biệt giới tính hoặc khuynh hướng tình dục của tất cả nhóm. Các nguyên tắc tương tự sẽ được xử dụng để đánh
giá tất cả
các mối quan hệ và hành vi tình dục, cho dù quan hệ tình dục khác
giới hoặc đồng tính.
----------------------------------------
1 |
There
are many excellent introductions to Buddhism on the Web. Two good sources
which emanate from my own country, Australia, are: The Buddhist Council of
New South Wales, an Introduction to Buddhism by Graeme Lyall at http://www.zip.com.au/~lyallg/buddh.html and BuddhaNet,
operated by the Venerable Pannavaro at http://www2.hawkesbury.uws.edu.au/BuddhaNet/
|
A
L De Silva, Homosexuality and Theravada Buddhism, not currently in print, but
can be found at http://www2.hawkesbury.uws.edu.au/BuddhaNet/
|
|
Leonard
Zwilling, Homosexuality As Seen in Indian Buddhist Texts, in Buddhism,
Sexuality and Gender, edited by Jose Ignacio Cabezon, State University of New
York Press, New York, 1992.
|
No comments :
Post a Comment