
Đừng làm các việc ác, siêng làm các hạnh
lành, giữ tâm ý thanh tịnh, là lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183).
Bối cảnh: Phật giáo và Kinh Pháp Cú
Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư
bất đồng về vấn đề cơ bản này. Lần đầu tiên tôi
bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì
hai nhà hàng yêu
thích của tôi (Buddha’s
Vegetarian Food và Lotus
Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật tử,
và rất cẩn
thận chỉ để phục
vụ thức ăn chay không có trứng.
Trong một nhà
hàng mà tôi cho rằng việc này là cần thiết vì các tu sĩ
Phật giáo và các nữ tu ăn ở đây. Điều này giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có lời nguyền đối với súc vật thực sự
rất rất nghiêm túc. Mặt khác, vị
hôn phu của tôi và
tôi có một vài người bạn là Phật tử, nhưng vẫn tiếp tục
ăn thịt và cảm
thấy điều này là phù hợp với Phật giáo. Phật tử, hoặc
ít nhất là Tăng Ni Phật giáo có ăn chay
không? Phật giáo nói gì về việc chúng ta đối xử với loài vật? Điều này rất cần thiết để giải quyết tranh
cãi này, tôi cảm thấy quay trở
về kinh điển Phật giáo để tìm thấy những gì mà con người phải nói đến vấn đề này.
Cho đến nay, tôi thật thất
vọng trong sự
cố gắng để mua bản sao về
kinh điển Pali cho mình - có lẽ bởi vì nó dài gấp mười
một lần Kinh Thánh. Các cửa
hàng sách tôi mua đã bao
gồm tất cả các cổ phần lớn của những sách về Phật giáo,
nhưng không phải là kinh điển chính! Các nguồn trích dẫn phụ (hoặc tệ hơn!) về Phật giáo có làm sáng tỏ chỉ
một chút đối với những gì về
lời dạy của Đức Phật đối
với động vật. Tuy nhiên, tôi đã có
được một bản sao của
một phần quan trọng của kinh điển
Pali, Kinh Pháp Cú. Giáo Pháp (Dharma trong tiếng Sanskrit), có nghĩa là "luật,
đạo luật, đạo đức chính trực, luật vĩnh cửu của
vũ trụ, chân
Lý",
và pada có nghĩa là "chân" hoặc "bước chân". Vì
vậy, Kinh Pháp Cú là
những bước mà chúng ta phải có để sống theo đạo luật và tâm luật (Phật giáo). Theo học giả Juan Mascaró,
tinh thần của Kinh
Pháp Cú là tinh thần của Đức Phật, được ứng dụng cho cả hai, những người xuất gia và các học giả". Vì vậy, nó có vẻ hợp lý rằng
chúng ta có thể tìm thấy được tối thiểu sự
tương ứng đầu tiên về phương pháp tiếp cận của Phật giáo
đối với câu hỏi về súc quyền từ nền tảng
đạo đức cơ bản được đặt ra bởi Đức Phật Gotama trong Kinh Pháp Cú.
Không sát sanh và không làm tổn hại
Trong Phật giáo, có năm giới, mà có thể được coi là đóng một vai trò tương tự như Mười Điều Răn cho người Do Thái và Kitô hữu. Những giới luật này cung cấp sự hướng dẫn đạo đức cho các Phật tử cư sĩ cũng như Tăng Ni. Chúng nó được tóm tắt như sau:
Trong Phật giáo, có năm giới, mà có thể được coi là đóng một vai trò tương tự như Mười Điều Răn cho người Do Thái và Kitô hữu. Những giới luật này cung cấp sự hướng dẫn đạo đức cho các Phật tử cư sĩ cũng như Tăng Ni. Chúng nó được tóm tắt như sau:
He who destroys life, who utters lies, who
takes what is not given to him, who goes to the wife of another, who gets drunk
with strong drinks -- he digs up the very roots of his life.(Dhammapada,
246-247).
Ai ở
đời sát sinh/ nói láo không chân thật/ lấy của không được cho/qua lại với vợ
người /nghiện ngập với rượu mạnh/tự đào bới gốc mình.
Giới cấm sát sinh được biết như là giới
đầu tiên.
Ngoài ra,
Đức Phật cũng khuyên chúng ta không
"làm
tổn thương" những người khác, ví dụ:
He who for the sake of happiness hurts
others who also want happiness, shall not hereafter find happiness. (Dhammapada,
131.)
Ai cũng cần hạnh phúc/cầu hạnh phúc cho mình/hại hạnh phúc của người/ đời sau không hạnh phúc
Có lẽ bởi vì
không sát sinh và không làm tổn thương kẻ khác là rất quan trọng, Đức Phật nhiều
lần yêu cầu chúng ta không
nên có hành động
đó ở nhiều đoạn văn trong Kinh Pháp Cú (xem
phần tiếp theo để
biết thêm chi tiết). Thực tế rằng
ở giới thứ nhất
và các giáo lý
khác cấm sát sinh và làm tổn thương không gây tranh cãi giữa các Phật tử với nhau. Trường hợp có tranh cãi đến
là câu hỏi của người
Phật tử bị cấm không được giết chết hoặc làm tổn thương.
Giới
đầu tiên và sự ngăn cấm làm tổn hại để bảo vê ai?
Giới thứ nhất và các lời dạy khác chống làm tổn thương và bảo vệ
súc vật? Có lẽ giống như điều răn của Do
Thái-Kitô giáo "Ngươi chớ giết"
nhằm áp dụng đối với loài người. Khả năng này có thể
được loại trừ gần
như ngay lập tức, trong Kinh Pháp
Cú, có rất nhiều huấn thị rõ ràng chống lại việc sát
hại hoặc làm tổn thương
chúng sinh, chứ không phải chỉ
dành cho "con người ":
But although a man may wear fine
clothing, if he lives peacefully; and is good, self-possessed, has faith and is
pure; and if he does not hurt any living being, he is a holy Brahmin,
a hermit of seclusion, a monk called a Bhikkhu. (Dhammapada, 142.
Emphasis added.)
Người có trang sức tốt/nếu sống tâm tịnh
thiện/có kiên định phạm hạnh/không tổn hại chúng sinh/vị ấy là phạm chí/ là ẩn
sĩ sa môn.
The
wise who hurt no living being, and who keep their body under
self-control, they go to the immortal NIRVANA, where once gone they sorrow no
more. (Dhammapada, 225 Emphasis added.)
Người trí không sát
sinh/thường chế ngự bản thân/Đạt niết bàn bất tử/cảnh giới không ưu buồn.
A
man is not a great man because he is a warrior and kills other men; but because
he hurts not any living being he in truth is called a great man. (Dhammapada,
405. Emphasis added.)
Một con người vĩ đại/vì y là chiến sĩ/giết chết nhiều người khác/nhưng
người không sát sại/bất kỳ mọi chúng sinh/xứng danh: người vĩ đại.
Rõ ràng
rằng Đức Phật
đã cố gắng làm
cho điều này rõ
ràng, rằng huấn thị chống lại việc sát sanh hoặc làm tổn thương
không chỉ giới hạn đối với con người,
nhưng mở rộng ra đối với tất cả "chúng sinh."
Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi, "chúng sinh" là gì hoặc những ai? Một số người lập luận rằng sự bảo vệ của "chúng sinh" bao gồm thực vật cũng như các loài động vật, vì chúng nó cũng có sự sống. Nếu đây là trường hợp, thì điều này có thể tuyên bố rằng đối với một Phật tử, ăn một con thỏ là không tồi tệ hơn ăn một củ cà rốt.
Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi, "chúng sinh" là gì hoặc những ai? Một số người lập luận rằng sự bảo vệ của "chúng sinh" bao gồm thực vật cũng như các loài động vật, vì chúng nó cũng có sự sống. Nếu đây là trường hợp, thì điều này có thể tuyên bố rằng đối với một Phật tử, ăn một con thỏ là không tồi tệ hơn ăn một củ cà rốt.
Ở đây tôi đang
ở thế bất lợi, khi tôi chưa học tiếng Pali, cũng như tôi không có những bản kinh nguyên
gốc bằng tiếng Pali. Tuy nhiên,
một đoạn huấn thị tuyệt
vời diễn tả rằng chúng sanh là ám chỉ đến những loài có tri
giác (hữu tình).
All
beings fear before danger, life is dear to all. When a man considers this, he
does not kill or cause to kill. (Dhammapada, 129-130.)
Chúng sinh sợ nguy hiểm/chúng sinh sợ tử thần/Biết cân nhắc điều
này/không giết không bảo giết.
Ở
đây, Đức Phật giải thích rằng chúng ta không nên sát hại thay vì quan
tâm đối với nỗi sợ hãi và yêu thương sự sống mà mọi loài cần có. Hơn nữa, Ngài nói rằng tất cả chúng sinh đều có chung những thuộc tính này, cho thấy rằng từ mà Mascaró đã dịch như
"beings" thực sự có nghĩa là "chúng hữu
tình" (sentient beings). Một số người hoài nghi có thể cho
rằng loài động
vật phi nhân không phải là chúng sinh có tri giác (hữu tình). Tuy nhiên, trong
đoạn văn khác, Đức Phật đề cập
đến tri giác của con cá trong một phép ẩn dụ mô tả một tâm trí
loạn động:
Like a fish which is thrown on dry land,
taken from his home in the waters, the mind strives and struggles to get free
from the power of Death. (Dhammapada, 34.)
Như cá ném đất khô/vứt ra khỏi nguồn nước/tâm tranh đấu
vẫy vùng/để thoát khỏi thần chết.
Đoạn này cho
thấy rằng, từ “chúng sinh” được diễn tả trong Kinh Pháp Cú 130 (xem ở trên), cuộc sống của con cá rất đáng quí đối với nó - nếu không thì tại sao nó "tranh đấu vùng vẫy dể thoát khỏi thần chết” khi bị đưa ra khỏi dòng nước của nó? Nếu
Đức Phật cho
rằng loài cá là
loài chúng sinh có tri giác, điều này cho thấy
rằng ngài đã đề cập đến nhiều loài động vật
khác thông thường bị giết hại bởi con người. trong số các loài động vật khác thường thiệt mạng và bị thương của con người (ví dụ như động vật có vú và chim) cũng là
hữu tình chúng sinh. Vì vậy, ít nhất là cá, chim và động
vật có vú không thể bị giết
hoặc bị làm tổn thương theo giới đầu tiên và các giáo lý khác
nhằm bảo vệ chúng sinh . Nó có thể là hoàn
toàn ở giới đầu tiên bao gồm các động vật khác vậy.
Vậy tại sao Đức Phật không nói thẳng rằng không nên làm hại "động vật”, thay vì là "chúng sinh"? Có
lẽ nó là bởi
vì thời điểm và quốc độ trong thời Phật, những tín đồ của các tôn giáo nổi tiếng khác chẳng hạn
như đạo Jainism đã bảo vệ động vật và như vậy
điều này rất
rõ ràng đối
với đệ tử của Đức Phật trong việc bất sát không giết chết "chúng sinh", có nghĩa là không
giết chết động vật . Có lẽ không có
từ trong tiếng Pali bao gồm cả những loài động vật nhân và phi nhân, vì thế thuật ngữ được dịch là "chúng sinh
(living beings)" là đề cập chung. Hoặc có lẽ là
Đức Phật muốn chúng ta phải quan tâm hơn đến các động
vật có tri giác (hữu tình), chứ không phải sự sống của loài thực vật vô tình.
Sự gợi ý về
việc đối xử của chúng ta đối với động vật
Từ thời Đức Phật,
đã có những thay
đổi đáng kể trong mối quan hệ
giữa động vật và con người. Các thao tác như thuật giải phẩu sinh thể và
nhà máy sản xuất nông nghiệp sẽ không được biết trong thời Đức
Phật, và do
đó, tất nhiên chúng không
được đề
cập đến một
cách chi tiết ở trong Kinh Pháp Cú. Hơn
nữa, Kinh Pháp Cú là rất ngắn gọn,
và không liệt
kê tất cả các hành
vi bất thiện có
thể được thực
hiện đối với động vật (bao
gồm con người cũng như
động vật!). Tuy nhiên, mặc dù
vô số sự hãm hại đối với động vật, không phải tất cả được nói một cách chi tiết trong Kinh Pháp Cú, chúng ta có thể suy ra nhiều điều, đơn thuần là ở giới
thứ nhất và
những lời dạy chống lại việc làm tổn thương các chúng sinh
khác. Rõ ràng rằng Đức Phật
không muốn chúng ta tiêu diệt hoặc
làm tổn thương động vật như chính bản thân mình. Do đó,
Phật tử không thể là thợ săn, người đánh cá, bẫy chim, kẻ
đồ tể, kẻ chặt thịt vv… cũng không phải chúng
ta có thể dồn động vật đến chỗ không còn đất sống trong
những nơi được gọi là ngôi nhà của động vật.
Không
ăn thịt như thế nào? Một số
người cho rằng miễn
đừng giết động vật thì ăn thịt cũng không sao. Tuy nhiên, lưu ý rằng
đoạn 129 và 130
trong Kinh Pháp
Cú xác định
rằng chúng ta không nên "giết hoặc gây ra cái chết". Khi
mọi người mua sản phẩm làm ra từ cơ
thể động vật đã
chết, họ hẳn nhiên
gián tiếp giết hại những động vật . Do đó, thịt, da và lông
cũng bị cấm.
Điều này có đúng chăng, để có hiệu quả
kinh tế, giết động vật già và kém năng suất là cần thiết để sản xuất sữa
và trứng - chắc chắn đây là một trong những yêu
cầu của các ngành
công nghiệp trứng và sữa biện minh cho hành
vi này. Nếu vậy, thì mua sữa và trứng cũng
hẳn nhiên là nguyên nhân tạo ra sát sinh, và do đó
nên tránh điều này
nếu giữ giới thứ nhất.
Món
thịt mà người khác đã mua như thế nào? Hầu hết, có lẽ tất cả các trường hợp,
với việc chấp nhận thịt
phục vụ cho chúng
ta bởi
người khác, chúng ta đang gây ra việc sát sinh. Ví dụ, nếu
ăn thịt bạn bè
mời chúng ta đến ăn bữa tối, họ sẽ
mua thêm thịt
cho chúng ta trong sự mong đợi về chuyến thăm của chúng ta, hoặc nếu chuyến thăm của chúng ta nằm
ngoài kế hoạch, họ có thể mua thêm thịt để cất lại trong
tủ đựng thịt của họ sau
khi chúng ta rời
khỏi. Trong cả
hai trường hợp, sự chấp nhận
của chúng ta
đối với thịt đã gây ra cho việc giết hại động vật thêm. Vì vậy,
lý tưởng
nhất, chúng ta không nên chấp
nhận dùng thịt cung cấp từ những người khác, và nên để cho mọi người
biết trước điều này bất cứ khi nào có thể.
Một số người cho rằng thức ăn của dạ dày không quan trọng, chỉ có thức ăn của tâm mới quan trọng. Tuy nhiên,
Đức Phật đã chỉ ra rằng chúng ta
nên đưa ra sự suy nghĩ với những gì chúng ta ăn:
He who lives only for pleasures, and
whose soul is not in harmony, who considers not the food he eats, is
idle, and has not the power of virtue -- such a man is moved by MARA, is moved
by selfish temptations, even as a weak tree is shaken by the wind. (Dhammapada,
7. Emphasis added.)
Người sống theo dục lạc/không chế ngự tâm mình/ăn uống không điều
chế/biếng nhác không chuyên cần—như bị ma dẫn đắt/bị ích kỷ khống chế/như cành
cây yếu đuối/lung lay theo chiều gió.
Not
to hurt by deeds or words, self-control as taught in the Rules, moderation
in food, the solitude of one's room and one's bed, and the practice of the
highest consciousness: this is the teaching of the Buddhas who are awake. (Dhammapada,
185. Emphasis added.)
Thân khẩu đừng não hại/tự hộ trì giới luật/ăn uống có tiết độ/sống ở
nơi thanh tịnh/chuyên tu tập thiền định/đây lời chư Phật dạy.
Có lẽ những lời
dạy trên khuyên chúng ta tránh đi
thói ham ăn cũng như nên ăn
chay. Nhất định nhiều
người tìm
cách
"từ bỏ" sự khổ đau từ thịt (hoặc các sản phẩm khác giết
hại động vật) cũng nên xem xét nếu họ đã tự cho phép mình trở nên quá gắn liền với những thú vui vật chất, và chú ý đến những lời của Đức Phật:
He who does what should not be done and
fails to do what should be done, who forgets the true aim of life and sinks
into transient pleasures -- he will one day envy the man who lives in high
contemplation.
Làm việc không nên làm/không làm việc cần làm/người đắm
chìm dục lạc/quên chân lý cuộc đời--rồi y sẽ đố kỵ/bậc an trú đại định.
Let
a man be free from pleasure and let a man be free from pain; for not to have
pleasure is sorrow and to have pain is also sorrow. (Dhammapada,
209-210.)
Hãy thoát khỏi dục lạc/hãy thoát khỏi cực hình/không dục lạc thì
khổ/cực hình cũng đớn đau.
Mặc
dù lý tưởng của sự tách biệt không có nghĩa là chúng ta bị cấm để trải nghiệm những
thú vui vật chất, rõ ràng cho
phép hưởng thụ dục lạc đối với thịt để vượt
qua giới
cấm thứ nhất là trái với tinh thần của Kinh Pháp Cú. Nhiều người đã cố gắng
biện minh cho việc giết chết động vật bởi vì những lợi
ích mà nó mang lại, cho dù lợi ích kinh tế cho
những người làm nghề giết chết động vật, hoặc các
lợi ích có tiềm năng y học
có thể phát sinh từ sự giải phẩu sinh thể. Tuy nhiên, Ðức Phật nói:
He who for himself or others craves not
for sons or power or wealth, who puts not his own success before the
success of righteousness, he is virtuous, and righteous, and wise. (Dhammapada,
84. Emphasis added.)
Không vì mình vì người/ và không cầu con cái/ hoặc tài
sản lớn lao/chẳng mong mình thành tựu/với thành tựu đạo đức/vị ấy có giới hạnh/có
chánh pháp, trí tuệ.
Đó là, sự thực hành chánh đạo (tuân theo giới luật) có mức ưu
tiên cao hơn sự “thành tựu” thế gian. Hơn nữa, Đức Phật cảnh báo về vìệc tham luyến đối với thân thể:
Consider this body! A painted puppet
with jointed limbs, sometimes suffering and covered with ulcers, full of
imaginings, never permanent, for ever changing.
Hãy quán sát thân này/như con rối tô màu/với chân tay ráp lại/đau đớn
và ung nhọt/tràn đầy điều khởi tưởng/ không bao giờ trường cửu/và thay đổi
không ngừng.
This
body is decaying! A nest of diseases, a heap of corruption, bound to
destruction, to dissolution. All life ends in death.
Thân này đang suy già/là một ổ bịnh hoạn/một đống phân thúi nát/buộc
ràng với hoại diệt/Vì tất cả đời sống/kết thúc bằng cái chết.
Look
at these grey-white dried bones, like dried empty gourds thrown away at the end
of the summer. Who will feel joy in looking at them?
Nhìn xương xám trắng này/như bầu
bí rỗng khô/ném bỏ cuối mùa hè/ai còn thích nhìn chúng?
A
house of bones is this body, bones covered with flesh and with blood. Pride and
hypocrisy dwell in this house and also old age and death.
Thân này làm bằng xương/xương phủ bằng thịt máu/kiêu mạn và dối
trá/trụ trong ngôi nhà này/rồi cũng già và chết.
The
glorious chariots of kings wear out, and the body wears out and grows old; but
the virtue of the good never grows old... (Dhammapada, 147-151).
Như xe vua rực rỡ/rồi cũng phải mục hư/thân này rồi già suy/nhưng giới
đức thiện pháp/chẳng già suy bao giờ…
Mặc dù Đức
Phật không yêu cầu chúng ta gây tổn hại cho cơ thể của chúng ta, hoặc trực tiếp
hoặc bằng cách bỏ qua các nhu cầu của cơ thể chúng ta
(điều này sẽ là vô nghĩa), ngài nhấn mạnh rằng cơ thể là vô thường, và chúng ta nên quan tâm nhiều về đạo đức hơn là việc bảo vệ cơ thể. Do đó, giết chết động vật (một hành vi vi phạm của giới
đầu tiên), không thể được biện
minh bằng cách tuyên bố rằng
nó sẽ kéo dài tuổi thọ của con người. Hơn nữa, không giống như kinh điển
Do Thái-Kitô giáo, Kinh Pháp Cú không cho
rằng con người là cao hơn hoặc quan
trọng hơn các động vật khác.
Vậy kết thúc
ở đâu? Đây là một điều đáng buồn đối với cuộc sống mà mọi thứ chúng ta mua hoàn
toàn liên quan đến sự hãm hại chúng
sinh ở một
số điểm trong sản xuất, đơn giản
bởi vì đại đa số người sẵn sàng giết hại động vật bất cứ khi nào cần thiết. Ví dụ, các loại rau cải mà chúng ta
ăn có thể đã được bón bằng phân bột làm bằng xương, quần áo kết bằng sợi thực vật có thể được làm bằng các sản phẩm có nguồn
gốc từ động vật,
thuốc men hiện tại
được giám định bởi pháp
luật xuyên qua
việc thử nghiệm trên thân thể động vật. Tuy nhiên, việc mua các sản
phẩm như thế này không
đòi hỏi phải giết
hại cho việc sản xuất của họ, nó không rõ ràng rằng chúng ta đang gây ra cái chết cho những loài khác - đặc biệt là nếu chúng ta cũng
đang làm việc để thay đổi những phương thức trong các ngành công
nghiệp. Vậy thì, tốt nhất là để duy trì mức tiêu thụ của tất cả các sản phẩm ở mức tối thiểu,
cả hai để giảm thiểu những vụ
lợi chung để sát sinh, với việc tuân thủ lý tưởng buông
xả của Phật giáo bằng mọi cách.
Những gợi ý của Kinh Pháp Cú đối với những nhà bảo
vệ Súc quyền
Ở mức tối thiểu, Kinh Pháp Cú là phù hợp
với những quyền lợi động vật.
Thật vậy, có vẻ như nó chỉ thị đối với các mục tiêu của phong trào súc quyền, ví dụ như việc bãi bỏ ngành công nghiệp thịt và thuật giải phẩu sinh thể. Kinh Pháp Cú được cho là một trong những
kinh điển cốt lõi của Phật giáo, điều này thì không dễ dàng để thấy được làm thế nào mà Phật tử tham gia
vào hoạt động giết thú
vật có thể biện minh cho sự tương
phản giữa thực
hành và những lời dạy của Đức Phật.
Tuy nhiên, những nhà hoạt động súc quyền nên lưu ý rằng giết chết
các loài động vật trong các"trang trại" cũng bị cấm. Theo như tôi hiểu, đây
là một hệ quả hợp lý của súc quyền cũng như Phật giáo, tuy nhiên một thực tế
không may là nhiều người tự coi mình là một
phần của phong trào đòi quyền động
vật vẫn thấy giết mèo vô gia cư và
con chó hợp pháp hoặc
trường hợp cần thiết. Cũng
thế, dù các mục tiêu của súc quyền là bởi và rất thích hợp với Phật giáo, các hành động thường xuyên được thực hiện để đạt được
những mục tiêu này
thì không thấy. Nhiều người ủng hộ các
quyền lợi của động vật chỉ trích gay gắt về
những người
hành hạ động vật. Nhưng đìều tốt nào mà con người cần thực hiện? Đức Phật nhắc nhở chúng ta.
Never speak harsh words, for once spoken
they may return to you. Angry words are painful and there may be blows for
blows. (Dhammapada, 133.)
Chớ nói lời cay độc/một khi đã thốt ra/chúng trở về với
bạn/lời thù hận làm đau/ và đánh bật lại mình.
Vì vậy,
làm thế nào chúng ta
có thể hành động để giải thoát chúng sinh từ nỗi đau
khổ? Nếu
chúng
ta làm tốt sẽ có kết quả tương ứng sau đây:
Overcome anger by peacefulness: overcome
evil by good. Overcome the mean by generosity; and the man who lies by truth. (Dhammapada,
223.)
Định tĩnh thắng sân hận/lòng thiện thắng ác hung/rộng
lượng thắng bủn xỉn/chân thật thắng dối lừa.
Và nếu chúng ta phấn đấu để sống một cách hòa bình sẽ
là bài học cho thế giới
về từ bi hơn là sự hênh hoang đầy thù địch. Tất nhiên, đây không phải là dễ
dàng! Tôi không tuyên bố làm chủ được bản thân
mình, mặc dù nó là một vài đìều mà tôi còn phấn đấu. Đức Phật
thừa nhận những khó khăn, nhưng khuyến khích chúng
ta tiếp tục nỗ lực:
If he makes himself as good as he tells
others to be, then he in truth can teach others. Difficult indeed is self-control.
(Dhammapada, 159.)
Nếu
tự làm mình tốt/như răn bảo người khác/người sống thật với mình/có thể dạy người
khác/tự điều phục khó thay.
Đôi
khi lý tưởng này dường như vô nghĩa, và vô
vọng, vô ích, chúng ta hãy cố gắng gạt
qua cơn giận dữ và nỗi
tuyệt
vọng của chúng
ta ở những gì mà con người đồng loại của chúng
ta đang đối
xử với động vật, và hãy tập
trung tình yêu dành cho động
vật, thúc đẩy sự
tranh đấu dành cho súc quyền: Vì
lòng căm
thù không chinh phục được
lòng căm thù: lòng
căm thù được chinh
phục bởi tình
yêu. Đây là một định
luật nghìn thu. (Kinh
Pháp Cú, 5.)
No comments :
Post a Comment