
Phần I: Thời Đại Umayyad Caliphate (661 - 750 CE)
1-Sự
Truyền Bá Của Phật Giáo tại Trung Á và những vùng Phụ Cận Trước Kỷ Nguyên Ả Rập
Trước khi người Ả Rập mang Hồi giáo đếnTrung Á giữa thế kỷ
7 CE, Phật giáo đã phát triển
mạnh mẽ ở đây hàng trăm năm. Đặc biệt nổi
bật dọc theo con đường tơ lụa,
giao lưu thương mại giữa Ấn Độ và người
HánTrung Quốc, dưới sự lãnh đạo từ hai Để chế, Byzantium và La Mã. chúng tôi sẽ phác thảo ngắn gọn sự truyền bá đầu tiên của Phật giáo với phần thế giới này để chúng
ta có thể đánh giá tốt hơn quá trình lịch sử đụng độ với Hồi giáo.
Địa lý
Trong điều kiện của các khu vực địa lý hiện tại,
khu vực đầu tiên của Phật
giáo thuộc về Trung Á ở những thời điểm khác nhau:
(1) Ấn Độ và Pakistan quản lý Kashmir,
(2) Những thung lũng nằm bên triền núi phía bắc như Gilgit,
(3) Pakistan Punjab, bao gồm cả thung lũng Swat, và miền đông Afghanistan phía nam thuộc vế Hindu Kush Mountains,
(4) Thung lũng sông Amu Darya ở phía bắc của Hindu Kush, bao gồm cả Afghani Turkistan đến phía nam của sông Amu Darya và miền nam West Turkistan (hướng đông nam Uzbekistan và hướng namTajikistan) đến phía bắc của dòng sông,
(5) Phía đông bắc Iran và Nam Turkmenistan,
(6) khu vực giữa sông Amu Darya và song Syr Darya, trung tâm chính là Tây Turkistan (miền đông Uzbekistan và tâyTajikistan),
(7) khu vực phía bắc của Syr Darya, nghĩa là phía bắc West Turkistan (Kyrgyzstan và đông Kazakhstan),
(8) Phía nam Tân Cương (thuộc tỉnh Tân Cương) thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, cụ thể là phía nam của East Turkistan, cả hai phía Bắc và phía Nam của sa mạcTaklaMakan, xung quanh ngoại vi của lưu vựcTarim Basin,
(9) Phía bắc Tân Cương, giữa Tianshan (T'ian-shan) và dãy núi Altai,
(10) Khu tự trị Tây Tạng, Thanh Hải, phía đông nam Cam Túc (Kan-su), phía tây Tứ Xuyên, và tây bắc Vân Nam, trong khu vực nước Cộng hòa Nhân dân của Trung Quốc,
(11) Nội Mông Cổ, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, Cộng hòa Mông Cổ (Ngoại Mông), và Cộng hòa Buryat ở Siberia, Russia.
(1) Ấn Độ và Pakistan quản lý Kashmir,
(2) Những thung lũng nằm bên triền núi phía bắc như Gilgit,
(3) Pakistan Punjab, bao gồm cả thung lũng Swat, và miền đông Afghanistan phía nam thuộc vế Hindu Kush Mountains,
(4) Thung lũng sông Amu Darya ở phía bắc của Hindu Kush, bao gồm cả Afghani Turkistan đến phía nam của sông Amu Darya và miền nam West Turkistan (hướng đông nam Uzbekistan và hướng namTajikistan) đến phía bắc của dòng sông,
(5) Phía đông bắc Iran và Nam Turkmenistan,
(6) khu vực giữa sông Amu Darya và song Syr Darya, trung tâm chính là Tây Turkistan (miền đông Uzbekistan và tâyTajikistan),
(7) khu vực phía bắc của Syr Darya, nghĩa là phía bắc West Turkistan (Kyrgyzstan và đông Kazakhstan),
(8) Phía nam Tân Cương (thuộc tỉnh Tân Cương) thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, cụ thể là phía nam của East Turkistan, cả hai phía Bắc và phía Nam của sa mạcTaklaMakan, xung quanh ngoại vi của lưu vựcTarim Basin,
(9) Phía bắc Tân Cương, giữa Tianshan (T'ian-shan) và dãy núi Altai,
(10) Khu tự trị Tây Tạng, Thanh Hải, phía đông nam Cam Túc (Kan-su), phía tây Tứ Xuyên, và tây bắc Vân Nam, trong khu vực nước Cộng hòa Nhân dân của Trung Quốc,
(11) Nội Mông Cổ, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, Cộng hòa Mông Cổ (Ngoại Mông), và Cộng hòa Buryat ở Siberia, Russia.
Tên lịch sử
của các khu vực này là:
1. Kashmir, thủ phủ tại Srinagar,
2. Gilgit,
3. Gandhara, với các thành phố lớn là Takshashila ở phía bên Punjab Pakistan của Khyber Pass và Kabul thuộc vùng Afghanistan, với Swat được gọi là Oddiyana
4. Bactria, khoảng cách giữa thung lũng sông Oxus River, với trung tâm của nó tại Balkh, hiện nay là Mazar-i-Sharif,
5. Parthia, sau này là Khorasan, thành phố chính của nó ở Merv, và đôi khi phần ở miền nam Turkmenistan được gọi là Margiana,
6. Sogdia, Ma Wara'an Nahr sau này, giữa Oxus và sông Jaxartes, với các trung tâm chính của nó, kéo dài chừng từ tây sang đông, tại Bukhara, Samarkand, Tashkent, và Ferghana,
7. không có tên cụ thể, nhưng với trung tâm chính tại Suyab phía nam của hồ Issyk Kul,
8. không có tên cụ thể, nhưng với các thành phố ốc đảo chính, các tiểu bang dọc theo mép phía nam của vùng lòng chảo Tarim Basin, đi từ tây sang đông, là Kashgar, Yarkand, Khotan, và Niya, và dọc theo mép phía Bắc, Kucha, Karashahr, và Turfan (Qocho), và với hai tuyến đường nhập vào ở phía đông tại Đôn Hoàng (Tun-huang),
9. Dzungaria, với các thành phố chính tại cửa ngõ phía đông của nó xuyên qua những dãy núi Tianshan từ Turfan là Beshbaliq (Beiting, Pei-t'ing), gần Urumqi ngày nay,
10. Tây Tạng, thủ phủ của nó tại Lhasa,
11. Nước Mông Cổ (Mongolia).
1. Kashmir, thủ phủ tại Srinagar,
2. Gilgit,
3. Gandhara, với các thành phố lớn là Takshashila ở phía bên Punjab Pakistan của Khyber Pass và Kabul thuộc vùng Afghanistan, với Swat được gọi là Oddiyana
4. Bactria, khoảng cách giữa thung lũng sông Oxus River, với trung tâm của nó tại Balkh, hiện nay là Mazar-i-Sharif,
5. Parthia, sau này là Khorasan, thành phố chính của nó ở Merv, và đôi khi phần ở miền nam Turkmenistan được gọi là Margiana,
6. Sogdia, Ma Wara'an Nahr sau này, giữa Oxus và sông Jaxartes, với các trung tâm chính của nó, kéo dài chừng từ tây sang đông, tại Bukhara, Samarkand, Tashkent, và Ferghana,
7. không có tên cụ thể, nhưng với trung tâm chính tại Suyab phía nam của hồ Issyk Kul,
8. không có tên cụ thể, nhưng với các thành phố ốc đảo chính, các tiểu bang dọc theo mép phía nam của vùng lòng chảo Tarim Basin, đi từ tây sang đông, là Kashgar, Yarkand, Khotan, và Niya, và dọc theo mép phía Bắc, Kucha, Karashahr, và Turfan (Qocho), và với hai tuyến đường nhập vào ở phía đông tại Đôn Hoàng (Tun-huang),
9. Dzungaria, với các thành phố chính tại cửa ngõ phía đông của nó xuyên qua những dãy núi Tianshan từ Turfan là Beshbaliq (Beiting, Pei-t'ing), gần Urumqi ngày nay,
10. Tây Tạng, thủ phủ của nó tại Lhasa,
11. Nước Mông Cổ (Mongolia).
Mặc dù một vài tên này đã thay đổi nhiều lần trong quá trình lịch sử, chúng ta sẽ giớ hạn mình
Với
một phần này để tránh nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ đề cập đến
các khu vực
của Cộng hòa nhân
dân Trung Quốc ngoại trừ Cam Túc, Nội Mông Cổ, vùng
dân tộc Tây Tạng, Mãn Châu, và các bộ lạc vùng đồi phía Nam
là"Hán Trung Quốc," quê hương của những người dân tộc Hán. Chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ “Bắc Ấn” để tham khảo chủ yếu là vùng Gangetic Plain, không bao gồm phạm vi Jammu và Kashmir, Himachal
Pradesh, Indian Punjab,
Rajasthan, hoặc bất kỳ tiểu
bang nào của nước Cộng hoà Ấn Độ về phía đông của Tây Bengal.
Bằng "Iran," chúng tôi đặt
các khu vực hiện ở trong biên giới của nước Cộng hoà Hồi giáo Iran, bởi "người
Ả Rập," là
những người thuộc toàn bộ Arabian Peninsula (bán đảo Ả Rập) và phía nam Iraq.
Tây và
Đông Turkistan
Mặc dù có
nhiều truyền thống liên quan đến
ngày của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, hầu hết các học giả phương Tây chấp
nhận rằng ngài
sống giữa năm
566 và 486 BCE.
Đầu tiên, Ngài giảng dạy
tại
vùng trung tâm của đồng bằng Gangetic ở miền bắc Ấn Độ. Dần dần các môn đồ của ngài truyền bá
thông điệp của ngài đến các khu vực xung quanh, nơi các cộng
đồng tu viện của Tăng và Ni sớm phát triển. Bằng cách này, Phật giáo dần dần phát
triển thành một tổ chức tôn giáo,
duy trì và truyền khẩu giáo lý của Đức Phật.
Phật giáo ban đầu truyền
bá từ bắc Ấn đến Gandhara và Kashmir ở giữa thế kỷ
thứ ba BCE xuyên qua những nỗ lực của vua
Ashoka Mauryan (trị
vì 273 -232 BCE). Hai thế kỷ sau, nó tạo ra những sự xâm nhập đầu tiên của mình vào cả
Tây và Đông Turkistan
khi nó mở rộng
từ Gandhara đến Bactria và
từ Kashmir để Khotan
trong thế kỷ thứ
nhất BCE. Băng qua thời điểm đó, từ Kashmir đến Gilgit và từ bắc Ấn đến Sindh và
Baluchistan ở miền
nam Pakistan ngày nay, qua miền đông Iran và vùng
trên Parthia. Theo truyền thống lịch sử Phật giáo,
hai thương nhân từ Bactria nằm trong số các
đệ tử trực tiếp
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, không có
bằng chứng về việc họ thiết lập Phật giáo
tại quê hương của họ ở giai đoạn đầu.
Vào đầu thế kỷ CE, Phật giáo đã thâm nhập sâu hơn vào miền Tây Turkistan, lan rộng từ
Bactria đến Sogdia,
Trong suốt thế kỷ
đó, nó cũng mở rộng hơn nữa
dọc theo mép phía
nam của vùng lòng chảo Tarim
Basin, băng qua từ Gandhara và Kashmir đến Kashgar, và từ Gandhara, Kashmir, và Khotan
đến vương quốc của Kroraina tại Niya.
Kroraina đã bị bỏ trống với sa mạc trong
thế kỷ thứ tư và hầu
hết những người dân của nó tái định cư tại Khotan.
Trong thế kỷ thứ hai CE, Phật giáo vươn đến bờ phía bắc của lòng chảo Tarim Basin, băng qua từ
Bactria đếnTocharian-dân tộc Kucha và Turfan. Xuyên qua một số
tài
liệu, những người Tocharians ở đây là con cháu của
người Yuezhi, một
giống
dân da trắng, nói tiếng cổ ngữ Ấn-Âu phương Tây.
Vào thế kỷ thứ hai BCE, một nhóm người Yuezhi, sau này được biết như là người
Tocharians, đã di cư về phía tây và định cư
ở Bactria. Do đó, Đông Bactria đã được biết đến là "Tocharistan".
Có
lẽ cùng tên với
nhau, họ
không có tồn tại trong sự liên
kết chính trị, tuy
nhiên là giữa người
Tocharians và Đông Bactria và Tocharians
của
Kucha và
Turfan.
Có sự hiện diện văn hóa của người Iran trong nhiều khu vực Tây và Đông
Turkistan, đặc biệt tại Bactria, Sogdia,
Khotan, và Kucha.
Do đó, Phật giáo
Trung Á đến để
kết hợp các tính năng của
người Zoroastrian với các trình độ khác nhau. Zoroastrianism (đạo thờ thần lửa) là tôn giáo cổ của Iran. Các yếu
tố học thuyết Zoroastrian đã xuất hiện ở cả
hình thức Nhất
Thiết Hữu Bộ của Phật giáo Tiểu thừa đã phát triển mạnh ở Bactria, Sogdia, Kucha, cũng như ở trong Phật giáo Đại thừa đã chiếm
ưu thế tại Khotan.
Hán Trung Quốc
Người HánTrung Quốc duy trì các đơn vị đồn trú quân sự
tại thành phố ốc đảo độc lập của Tarim
Basin từ thế kỷ thứ nhất BCE đến thế kỷ thứ hai CE. Tuy
nhiên, Phật giáo không
truyền bá đến vùng Hán Trung Quốc cho
đến khi sau
khi các thuộc địa này đã giành được độc lập của họ.
Bắt đầu từ giữa thế
kỷ thứ hai CE, Phật giáo đã vào HánTrung Quốc đầu tiên từ Parthia. Sự truyền bá của nó
được mở rộng về sau bởi các nhà
sư từ các vùng đất Phật giáo khác của Trung Á cũng như bắc Ấn và Kashmir. Những nhà sư Trung Á và
bắc Ấn đã giúp người
Hán dịch kinh văn tiếng Sanskrit và Gandhari Prakrit sang tiếng Trung Quốc, mặc dù
chính người
Trung Á đầu tiên ưa thích các phiên bản gốc Ấn Độ cho việc xử dụng cá nhân của mình. Vớisự tiếp xúc liên tục với các đoàn lữ hành quốc tế đến thăm
họ dọc theo con
đường tơ lụa, nhất là họ tiện dụng với các ngôn ngữ nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình công việc dịch thuật của mình
cho người HánTrung Quốc, người Trung Á không
bao giờ truyền đạt các tư tưởng Zoroastrian. Thay vào đó, Phật Giáo của người Hán Trung Hoa đã bị
nhiễm nhiều màu sắc của văn hóa Lão giáo và Khổng giáo.
Trong thời kỳ Six Dynasties (Lục triều 220-589 CE), Hán Trung Quốc chia thành nhiều
vương quốc ngắn ngủi,
đại khái
chia ra giữa phía bắc và phía nam. Sự tiếp
theo thuộc về những triều đại Phi-Hán—là những bậc tiền bối đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ, người Tây Tạng,
Mông Cổ, và Manchus (Mãn Tộc)--xâm lược và
cai trị phía Bắc, trong khi
miền Nam vẫn
duy trì nền văn hiến truyền thống Hán.
Phật giáo ở phía
bắc là theo định hướng và phục tùng ý tưởng bất chợt một cách trung thành của sự kiểm soát của chính phủ, trong khi ở
miền Nam là độc lập và đặt
tầm quan trọng về sự nghiên cứu triết học.
Do tác động ganh tỵ của các quan lại Lão giáo và
Khổng giáo về sự ủng hộ của chính đối với những tu viện Phật giáo, tôn giáo của Ấn Độ bị đàn áp ở hai vương quốc phía Bắc Trung Quốc giữa
năm 574 và 579. Tuy nhiên Wendi (Văn Đế),
thống nhất nhà Hán sau ba phần
hai thế kỷ và một nửa thế kỷ
của sự phân mảnh và thành lập triều đại nhà
Tùy (589-618), tự
gọi mình là Hoàng đế chuyển luân Phật pháp (Skt. Chakravartin). Và tuyên bố rằng
sự cai trị của mình (589-605) sẽ biến Trung Quốc
thành một lạc cảnh “Tịnh Độ” Phật
giáo, ông đã làm sống lại đức tin
Phật giáo
Ấn Độ
đến điểm
cao hơn. Mặc dù nhiều vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Đường (618-906) ủng
hộ Đạo giáo, họ
cũng tiếp tục
hỗ trợ Phật giáo.
Đông và
Tây Đế Chế Thổ Nhĩ Kỳ (Turk Empires)
Từ đầu thế kỷ
thứ năm, người Ruanruan
cai trị một đế chế rộng lớn
tập trung tại Mông Cổ và kéo dài từ Kucha đến biên giới của Hàn Quốc. Họ đã chấp nhận một sự pha trộn của người Iran-chịu ảnh hưởng các
hình thái của người Khotan và Tocharian về
Phật giáo và giới thiệu nó với người Mông Cổ. Người Old Turk (Thổ Nhĩ Kỳ Cổ) sống ở Cam
Túc trong vùng Ruanruan,bị lật đổ sau
năm 551. Triều đại Turk Old
Empire thành lập tách ra thành
hai vùng phía đông và phía tây
trong vòng hai năm.
Người Đông Thổ Nhĩ Kỳ cai trị Mông Cổ và tiếp tục
hình
thức Ruanruan của
Khotanese /
Tocharian. Phật giáo được tìm thấy ở đây, kết hợp với
các yếu tố của người Bắc HánTrung Quốc. Họ phiên dịch nhiều kinh văn Phật giáo sang ngôn ngữ Old Turk
(cổ ngữ Thổ Nhĩ Kỳ) từ nhiều ngôn ngữ địa phương Phật giáo với sự giúp đỡ của các
nhà sư từ bắc Ấn, Gandhara,
và Hán Trung,
nhưng đặc biệt
từ cộng đồng Sogdian
tại
Turfan. Khi
các thương nhân chủ yếu trên
chuyến hành trình của con đường tơ lụa, người Sogdians đã sản xuất những tu sĩ giỏi nhiều thứ tiếng.
Đặc
điểm chính của Phật giáo của người Cổ Thổ Nhĩ Kỳ là sự hấp dẫn của nó đối với người bình dân, sát
nhập cùng các vị thần hộ vệ Đức Phật mang nhiều tính
phổ biến, tôn thờ các vị thần địa phương, bao gồm cả truyền
thống Shaman, Tengrian, và những học thuyết Zoroastrian. Tengrism là hệ thống
niềm tin truyền thống trước Phật giáo của các dân tộc khác nhau của những vùng thảo nguyên Mông
Cổ.
Thổ Nhĩ Kỳ hướngTây lần đầu tiên cai
trị Dzungaria và
miền bắc Tây Turkistan.
Năm 560, họ
chiếm phần phía
tây của con đường
Tơ lụa từ
người Hung trắng
(Hephthalites) và di cư dần dần đếnKashgar, Sogdia,
và Bactria, thành
lập sự hiện diện rõ nét tại Afghani Gandhara. Trong quá trình mở rộng của họ, nhiều người dân
của họ tin theo Phật giáo, đặc biệt là
hình thức được tìm thấy trong các khu vực mà họ
chinh phục.
Vị Trí Phật Giáo tại West Turkistan Ở Buổi
Đầu Xuất Hiện của người Tây Thổ Nhĩ Kỳ (Western Turks)
Trong nhiều thế kỷ trước khi sự di cư của người Thổ Nhĩ Kỳ hướng Tây, Phật
giáo đã hưng
thịnh ở miền trung và nam của Tây Turkistan
dưới sự cai trị kế tiếp của Đế chế Graeco-Bactrians, Shakas, Kushans, Ba Tư Sassanids, và người
Hung trắng. Người
Hán hành hương đến Ấn
Độ, Faxian (Fa-hsien), du lịch trong
khu vực này giữa năm 399 và
415, họ đã báo cáo đầy đủ với những tu viện hoạt động. Tuy nhiên, khi người Thổ Nhĩ Kỳ hướng Tây đến
khu vực này, một
thế kỷ rưỡi sau đó, họ đã tìm thấy Phật giáo
trong một trạng thái suy yếu, đặc biệt là ở Sogdia.
Nó đã tàn tạ rõ ràng trong thời gian cai trị của Đế chế White Hun (Hung trắng).
Người Hung trắng đa phần là những người ủng hộ trung thành đối với Phật giáo. Ví dụ, năm 460, người cai trị của họ đã gửi một
mảnh
vải từ áo choàng của Đức Phật như là một
thánh vật từ Kashgar tặng cho cung điện bắc
Trung Quốc. Tuy nhiên,
năm 515, vua
Hung Trắng là Mihirakula (Đại Tộc Vương) đã xúi
giục một cuộc đàn áp Phật giáo, tự nhận là
bị
tác động bè phái ghen tị của tín đồ Cơ đốc giáo: Manichaean và
Nestorian ở trong triều đình. Thiệt hại tồi tệ nhất là
ở Gandhara, Kashmir,
và một phần phía tây của miền bắc Ấn Độ, và còn nới rộng đến
Bactria và Sogdia
trên một quy mô
hạn chế hơn.
Vào khoảng năm 630, Sự nổi bật tiếp theo là nhà chiêm bái Huyền
Tranh người Hán hành hương đến Ấn Độ, đã đến thăm Samarkand, thủ đô của Tây Turk tại Sogdia, ngài đã nhận ra rằng mặc dù có nhiều Phật tử, người
theo đạo Zoroastrians (thờ
Thần lửa) tại địa phương là thù địch với người
Phật giáo. Hai tu viện chính
của Phật giáo là
trống rỗng và khép kín. Tuy nhiên, năm 622,
nhiều năm
trước khi
chuyến thăm của
Huyền Trang đến Samarkand, người cai trị
Western
Turk
làTongshihu Qaghan đã chính thức chấp nhận Phật giáo dưới sự hướng dẫn của
vị
sư có tên là Prabhakaramitra trong dịp đến thăm miền bắc Ấn Độ. Ngài Huyền Trang đã
khuyến khích nhà
vua mở lại tu viện bỏ hoang gần
thành phố và xây
dựng thêm những tu viện khác.
Nhà vua và những người kế theo lời khuyên của
nhà sư Trung Quốc và xây dựng nhiều tu viện mới
ở
Sogdia -
không chỉ tại Samarkand, nhưng
ở thung lũng Ferghana
và ngày này là hướng tây Tajikistan. Họ cũng truyền bá sự pha trộn của các hình thức Sogdian và
Kashgari của Phật
giáo miền bắc West Turkistan Turkistan. Ở đây, họ xây dựng những tu viện mới trong
thung lũngTalas River mà ngày nay là miền nam Kazakhstan, thung lũng Chu River ở phía tây bắc Kyrgyzstan, và tại Semirechiye ở hướng đông nam Kazakhstan gần Almaty ngày nay.
Khác hẳn Sogdia, ngài Huyền Trang đã
ghi
chép sự phát triển của nhiều tu viện Phật giáo tại Kashgar và Bactria, các khu vực lớn khác được kiểm soát bởi
người Tây Thổ Nhĩ Kỳ. Kashgar đã có hàng trăm tu viện và mười
nghìn tu sĩ, trong
khi ở Bactria thì những con số khiêm tốn hơn.
Các tu viện lớn
nhất của toàn bộ khu vực là
Nava Vihara (Nawbahar,
Nowbahar) tại Balkh, thành phố chính của
Bactria. Nó phục
vụ như là trung tâm chính của việc nghiên cứu Phật giáo cao hơn cho tất cả các khu vực Trung Á, và những tu viện chi
nhánh ở Bactria và Parthia
cũng
được gọi là navaviharas.
Giống như một trường đại học, Nava Vihara chỉ
chấp nhận các nhà sư, người đã sáng tác những tác phẩm uyên bác. Vihara nổi tiếng có những
bức tượng Phật đẹp
tuyệt vời, phủ ngoài lớp áo cà sa lụa sang trọng và được trang trí bằng các trang sức quý hiếm, phù hợp với
phong tục
của người theo đạo Zoroastrian tại
địa phương. Đặc biệt, nó có sự liên kết với Khotan,nơi đào tạo nhiều bậc thầy.Theo ngài
Huyền Trang, Khotan vào thời điểm đó đã có hàng trăm tu viện với 5.000
nhà sư.
Sự Suy Tàn
của Western Turks
Đến giữa
thế kỷ thứ bảy, người Western Turk kiểm soát các
khu vực này ở Tây và Đông Turkistan và bắt đầu suy yếu. Đầu tiên, người Turks (Thổ Nhĩ Kỳ ) bị mất vùng Bactria đến Shahis Turki,
và người Phật giáo
gốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị Gandhara. Huyền Trang đã
nhận ra tình hình của Phật giáo tại Gandhara tồi tệ hơn ở Bactria,
mặc dù người Tây Thổ Nhĩ Kỳ
đã thành lập một
tu viện ở Kapisha, không xa
phía bắc thủ đô Kabul vào năm 591. Các tu viện chính
ở khu vực Kabul Pass, tu viện Nagara Vihara, ngay phía nam Jalalabad ngày nay, nơi đặt
di tích hộp sọ
của Đức Phật và là
một trong những địa
điểm hành hương thiêng liêng nhất trong thế giới Phật giáo. Tuy nhiênTăng sĩ ở đây đã bị vật chất lôi cuốn, và đã tính phí khách hành hương với giá một đồng tiền vàng để xem thánh tích. Nơi đây không có trung tâm
nghiên cứu trong
toàn bộ khu vực.
Ở
vùng Punjabi, các
nhà sư chủ yếu bảo quản các quy tắc của kỷ luật tu viện và hầu như
họ
không dễ
dàng để hiểu biết giáo lý Phật
giáo. Ví
dụ, Trong thung lũng Swat (Oddiyana), ngài Huyền
Trang đã tìm thấy nhiều tu viện trong đống đổ nát, và, những nhà vẫn còn đứng
đó, chỉ đơn thuần là thực hiện nghi lễ hầu đạt được sự bảo vệ và uy quyền từ
đấng siêu nhiên.
Ở
đây không còn
bất cứ truyền thống của sự tu
học và thiền định.
Một vị sư đi
chiêm bái người Hán sớm hơn là ngài Songyun (Tống
Vân), đã đến thăm Swat
vào năm 520, năm năm sau
cuộc đàn áp của Mihirakula (Đại
Tộc Vương). Ông đã báo cáo rằng các tu
viện vẫn còn hưng thịnh tại thời điểm đó. Nhà cai trị người White Hun
rõ
ràng không thực hiện chính sách chống Phật giáo mạnh mẽ của mình
ở các vùng xa xôi hẻo
lánh. Sự suy tàn tiếp theo của các tu viện ở Swat
là do nhiều trận động đất nghiêm trọng và lũ lụt xảy ra vào thế kỷ giữa lúc hai nhà chiêm bái
Trung Quốc đến. Với các thung lũng miền núi
nghèo khổ và sự thương mại thông qua Gilgit đến Đông Turkistan đã bị cắt đứt, các tu viện đã bị mất
hầu hết tất cả những sự hỗ trợ kinh tế của họ và sự tiếp xúc với nền văn hóa Phật giáo khác.
Tín ngưỡng địa
phương mê tín dị đoan và sự tín ngưỡng Shamam hỗn hợp với những gì còn lại của sự
hiểu biết Phật giáo.
Năm 650, Đế chế Tây Turk
Empire thu hẹp hơn nữa với sự mất mát của
Kashgar với nhà Hán Trung Quốc,
nhà Hán đã được mở rộng đế chế của mình
kể từ khi thành lập
triều đại nhà Đường năm 618. Trước khi giành quyền kiểm soát của Kashgar, lực lượng nhà Đường đã chinh phục Mông Cổ từ
ĐôngTurks và
sau đó các thành
phố chính dọc theo mép phía bắc của lòng chảo Tarim
Basin.Thực tế, mối đe dọa phát triển của
nhà Hán và sự
không có khả năng của
Đế chế Western Turks (Tây Thổ Nhĩ Kỳ) yếu
đuối để bảo vệ họ, vùng Kashgar và Khotan tự trị ở trên mép rìa phía nam đã quy phục một cách hòa bình.
Tây Tạng
Trong giai đoạn hai phần tư (tiền bán) của thế kỷ thứ bảy, những người
Tây Tạng thống nhất đất nước của họ. Vua Songtsen Gampo (Srong-btsan
sgam-po, r 617 -. 649) thành lập một đế
chế trải dài từ miền Bắc Miến
Điện (Burma) đến biên giới của người Hán
Trung Quốc và
Khotan. Bao gồm Nepal
như một nước chư hầu đã bị thu hẹp đếnThung lũng Kathmandu vào thời điểm này. Sau khi thành
lập đế chế của mình, Songtsen Gampo đã đưa Phật giáo vào đất nước của mình vào cuối những năm 640s. Tuy nhiên, điều này là một
quy mô rất hạn chế, bởi sự pha trộn các
khía cạnh khác nhau từ
Hán triều, Nepal, và Khotan. Khi người Tây Tạng đã
mở rộng lãnh thổ
của họ, họ chiếm lấy Kashgar từ nhà Đường vào năm 663,
và, trong cùng năm đó, thiết lập sự cai trị của mình tại Gilgit và Wakhan Corridor trong việc kết nối hướng tây của Tây Tạng với đông Bactria.
Gangetic Ấn Độ
Phật giáo đã cùng tồn tại hài hòa với Ấn Độ giáo và Jainism giáo trên đồng bằng Gangetic Palain ở bắc Ấn từ giai đoạn sớm nhất. Kể từ thế kỷ thứ tư CE, người Hindu coi Đức Phật là một trong mười hiện thân (Skt. avatara) của vị thần tối cao
Vishnu của họ. Ở mức độ phổ biến, nhiều người Ấn giáo đã cho rằng Phật giáo như là một thể dạng
khác của tôn giáo mình. Những vị Hoàng đế của thời kỳ Gupta đầu tiên (320-500) thường xuyên bảo trợ những nôi chùa, tu viện, và thầy giáo của cả hai tín ngưỡng. Họ xây dựng nhiều trường Đại học tu viện Phật giáo, nơi
phát triển nhiều cuộc tranh luận mạnh mẽ, Trường nổi tiếng nhất
là Nalanda (Na Lan Đà)
tại Bihar bây
giờ. Trung ương ngày nay. Họ cũng cho phép các quốc gia Phật giáo khác đi hành hương trong lãnh thổ của họ. Ví dụ, Hoàng đế Samudragupta cho phép vua Sri Lanka, Meghavanna (r. 362-409), để xây dựng tu viện Mahabodhi ở Vajrasana (bây giờ là Bodh Gaya), nơi Đức Phật đạt được giác ngộ.
Người
Hung trắng (White Huns) cai trị Gandhara và một phần phía tây của bắc Ấn hầu hết toàn bộ thế kỷ thứ sáu. Sự phá hủy của tu viện của Mihirakula mở rộng đến Kaushambi, một khoảng cách ngắn đến phía tây của Allahabad ngày nay, thuộc Uttar Pradesh. Với sự khởi đầu của thời kỳ Gupta thứ hai (cuối thế kỷ thứ
sáu - 750), những
hoàng đế của nó vẫn cố gắng để sửa chữa thiệt hại. Tuy nhiên, Huyền Trang vẫn còn tìm thấy nhiều tu viện ở phía tây của Kaushambi trong đống đổ nát khi ngài đến thăm nơi này. Dù vậy, Những tu việnj ở Magadha (Ma Kiệt Đà) ở phía đông, chẳng hạn như Nalanda và Mahabodhi vẫn còn hưng thịnh
Hoàng đế Harsha (ruled 606-647), vị Gupta bảo trợ mạnh nhất của Phật giáo, nuôi một ngàn Tăng sĩ từ Nalanda tại triều đình của ông. Ông tôn kính Phật giáo với mức
độ cao mà đã được ghi chép rằng ông ta đã sờ vào chân của ngài
Huyền Trang theo sự biểu lộ của truyền thống Hindu để
tỏ lòng tôn kính khi lần đầu tiên gặp mặt vị Tăng
người Hán này.
Năm 647, Arjuna, một vị
quan triều chống đối Phật giáo, lật đổ Harsha và nhanh
chóng soán ngôi Hoàng
đế Harsha. Khi ông ngược đãi sự viếng thăm của nhà chiêm bái Wang Xuance (Vương Huyền Sách) người Hán, và hầu hết những người cấp dưới đi
theo Wang bị cướp và bị giết, Wang Xuance là một Tăng sĩ, cũng là một phái viên của vua Đường Taizung (Thái Tông, r 627-650)
đã trốn thoát đến Nepal. Ở đây, ông đã yêu cầu sự giúp đỡ của hoàng đế Tây Tạng Songtsen Gampo- vị vua này năm 641 đã kết hôn với con gái của Hoàng đế nhà Đường, công chúa Văn Thành (Wengcheng). Với sự giúp đỡ của các chư hầu Nepal, Vua Tây Tạng lật đổ Arjuna và tái thành lập quyền lực Gupta. Sau đó, Phật giáo vẫn tiếp tục tận hưởng một tình trạng quý mến ở miền bắc Ấn Độ.
Kashmir
and Nepal
Kashmir và Nepal ở miền bắc Ấn Độ, Phật giáo cũng phát triển ở những địa hạt chính
của Hindu. Ngài
Huyền Trang đã báo cáo rằng Phật giáo ở Kashmir đã chủ yếu là phục hồi từ cuộc đàn áp của Mihirakula, đặc biệt là với sự hỗ trợ từ người sáng lập triều đại Karkota Dynasty mới
(630-856) vào thời điểm đó.
Mặt khác, Nepal đã thoát khỏi sự cai trị của White
Huns. Những nhà cai trị của triều đại Licchavi (386-750) duy trì sự ủng hộ liên tục đối Phật giáo. Năm 643, hoàng đế Tây Tạng, Songtsen Gampo
lật đổ Vishnagupta, một kẻ người cướp ngôi triều đại này, và phục hồi vua Narendradeva, người đòi hỏi ngai vàng Nepal, đã được chấp nhận tị nạn ở Tây Tạng. Tuy nhiên, biến cố này đã có ít ảnh hưởng về tình trạng Phật giáo của Nepal trong thung lũng Kathmandu. Songtsen Gampo sau đó kết hôn với công chúa Bhrkuti, con gái vua Narendradeva, gắn
chặt mối quan hệ giữa hai nước.
Tóm Tắt
Sau
đó Phật giáo đã được tìm thấy
trong hầu hết
những vùng của Trung Á khi người Ả Rập Hồi giáo đến giữa thế kỷ thứ bảy. Phật giáo mạnh nhất tại Bactria, Kashmir, và lưu vực Tarim Basin
là phổ cập, nhưng ở tại Gandhara và Mông cổ trình độ hiểu biết về Phật giáo còn thấp kém, Phật giáo đã đi vào Tây Tạng, và được thụ
hưởng một sự hồi sinh gần đây tại Sogdia. Dù vậy, nó không
phải là đức tin độc quyền của khu vực. Cũng có đạo
Zoroastrians, Ấn giáo, Kitô Nestorian, Đạo Do Thái, Manichaeans, và những người theo Tengrism, Shamanism, và các hệ thống tín ngưỡng bản địa khác không có
tổ chức. Giáp với Trung Á, Phật giáo mạnh mẽ ở Trung Quốc, Nepal, và bắc Ấn, nơi mà các tín đồ của nó sống một cách hòa bình với Lão giáo, Khổng giáo, Ấn giáo và Kỳ Na Giáo.
Trước khi Ả Rập Hồi giáo đến Trung Á, đế chế Shahis Turki cai trị Gandhara và Bactria, trong khi Tây Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát Sogdia và các vùng phía bắc của Tây Turkistan. Người Tây Tạng chiếm giữ Gilgit và Kashgar, trong khi nhà Đường Trung Quốc kiểm soát phần còn lại của Basin Tarim cũng như Mông Cổ. Đông Nhĩ Kỳ của Mông Cổ tạm thời đình đốn trong giai đoạn lâm thời của sự cai trị người Hán.
No comments :
Post a Comment