
Phầnt II: Đầu Thời Đại Abbasid (750 - Giữa Thế Kỷ 9 CE)
7 Sự Vượt Lên của Đế Chế Abbasids và Sự Suy Tàn của Nhà Đường Trung Quốc
Bối Cảnh Khu Vực
Trước khi thảo luận về sự phát triển lịch sử trong thời gian đầu Abbasid Caliphate, chúng ta hãy xem xét ngắn gọn tình hình chính trị ở Trung Á trước thời kỳ bình minh của giai đoạn này. Đế chế Umayyads cai trị Sogdia và Bactria, trong khi quân đội nhà Đường chiếm đóng khu vực phía bắc và phía tây tại Suyab, Kashgar, và Kucha, đang đe dọa xâm lược. Những lực lượng Đường triều cũng đã đóng quân tại Turfan và Beshbaliq. Người Oghuz Turks of White Dress vừa mới di cư từ miền nam Mông Cổ đến một góc đông bắc xa xôi của Sogdia. Khu vực của miền bắc West Turkistan và Dzungaria được kiểm soát bởi người Qarluqs, và Mông Cổ vừa mới ở dưới sự kiểm soát của người Duy Ngô Nhĩ.
Người Đường Trung Quốc và người Duy Ngô Nhĩ là đồng minh. Người Tây Tạng ở một vị trí yếu, nhưng
vẫn duy trì một sự hiện diện ở
các lãnh thổ miền Nam Tarim, mặc dù vua Khotanese
quý mến hoàng gia nhà Đường. Các đồng minh củaTây Tạng trước kia, đế chế Turgish, hầu như đã bị loại. Liên minh duy nhất còn lại với Tây Tạng là Turki Shahis tại Gandhara, trên danh nghĩa liên minh bằng việc sát nhập với Khotan.
Sự Thành Lập Đế Chế Abbasid Caliphate
Mặc dù hai giáo
phái Hồi giáo chính Sunni và Shia đã không chính thức kết hợp cho đến thế kỷ thứ mười một, để dễ dàng thảo luận chúng ta hãy
nói về tiền nhân của họ với
những phạm
vi này. Phong trào Murjiah, Được duy trì bởi người Umayyads là tiền
thân của phái Sunni. Nó ủng hộ hệ thống truyền thừa của
caliphate từ người anh rễ của nhà Tiên tri Prophet là Mu'awaiya, vị vua Calip đầu tiên của đế chế Umayyad. Phái Shia đã tiến triển từ phe đối lập, nó tuyên bố rằng tính hợp pháp của sự kế thừa đã bắt nguồn từ người anh em họ và người con rễ tên là Ali của nhà Tiên tri Prophet. Từ đó phần lớn người Ả Rập ủng hộ đế chế Umayyads và
theo Hồi giáo Sunni, hầu hết người Hồi giáo phi Ả Rập thì thích phái Shia hơn.
Các vua Calip Umayyad là người Ả Rập đến
từ vùng Arabian
Peninsula (Bán Đảo Ả Rập). Họ ủng hộ người
Ả Rập trong tất cả các khía
cạnh, nhiều hơn so với người Hồi giáo nói chung. Họ đã ngăn cấm những quân đội Hồi giáo phi -Ả Rập, ví dụ, việc chia sẻ chiến lợi phẩm thu được từ chiến thắng
trong trận chiến. Cách khác, phi-Hồi giáo Ả Rập, chẳng hạn như người đạo Cơ đốc hay người Do Thái từ Arabia (bán đảo Ả
Rập), được được đối xử ưu việt hơn những
người Hồi giáo phi- Ả Rập (không phải người Ả Rập). Một số người thậm chí còn được bổ nhiệm làm thống
đốc của khu vực phi-Ả Rập trong triều đại Caliphate. Chính sách đảng phái này gây ra sự bất mãn rất lớn, đặc biệt
là đối với những người Hồi giáo Iran tự coi mình là văn hóa cao
hơn người Ả Rập.
Abu Muslim là người Bactrian cải sang Hồi giáo Shia từ Balkh. Ông ta đã trở thành một thành
viên của Abu l'Abbas, một hậu duệ Ả Rập của Abbas, một uncle của của nhà Tiên tri Prophet, có lúc cả hai đã bị giam cầm tại Bactria (Khorasan)
vì các hoạt động chống Umayyad. Dựa vào sự bất mãn và rối loạn của người Iran và Trung Á, Abu
Muslim sau đó đã dẫn đầu một cuộc nổi loạn
lật đổ đế chế Umayyads vào năm 750. Sau khi chinh phục Damascus,
thủ đô của Umayyad, ông tuyên bố rằng Abu l'Abbas, được biết như là as-Saffah (r. 750-754), là vị vua Calip đầu tiên của hệ thống Abbasid. Như một phần thưởng,
as-Saffah đã bổ nhiệm Abu Muslim làm thống sứ
của Bactria. Đế chế Abbasid Caliphate kéo dài cho
đến năm 1258, nhưng chỉ cai trị Bactria và Sogdia cho đến giữa thế
kỷ thứ chín.
Từ khi Abbasid Calips là những người Ả Rập bắt nguồn từ một khu vực văn hóa Iran, người Hồi giáo Iran và Trung Á ban đầu hỗ trợ sự chiếm đoạt quyền lực của họ. Nghĩ rằng những người Abbasids thì ở hơi xa từ vùng Bán đảo Ả
Rập (Arabia) sẽ không có thành kiến chủng
tộc như các đế chế Umayyads, họ hy vọng triều đại mới sẽ không còn đối xử với họ như là
những công dân hạng hai.
Sự Thất Bại của Nhà Đường và Cuộc Nổi Loạn
của An Lộc Sơn
Năm 751, l'Abbas
Abu gia nhập lực lượng với Qarluqs và quay lưng lại với các lực lượng nhà Đường Trung Quốc đang đe dọa
cả hai. Họ đánh bại quân đội Đường tại sông Talas River ở miền nam Kazakhstan ngày nay, quyết định kết thúc sự hiện diện của Trung Quốc
ở Tây Turkistan. Điều này đánh dấu sự lật ngược xu hướng, sau đó sự chiếm đóng và cai trị của người HánTrung Quốc đối với ĐôngTurkistan dần dần thu hẹp và rồi kết
thúc .
Sự thất bại và những phí tổn
nặng nề của nhà Đường đối với tất cả chiến dịch vô ích của vua Huyền Tông ở Trung Á cuối cùng dường như đã trở thành quá quá áp lực cho người dân Trung Quốc phải chịu đựng dài hơn nữa. Năm 755, An Lộc Sơn (An Lu-shan), con trai của một người lính Sogdian phục vụ triều đường và mẹ là một người EasternTurk đã dẫn đầu một cuộc nổi loạn nổi
tiếng ở thủ đô Đường-Trường An. Mặc dù Hoàng đế triệu tập nhiều quân
đội của mình từ Kashgar, Kucha,
Beshbaliq, và Turfan,
chỉ để lại một lực lượng nòng cốt
trấn giữ, và đã nhận được sự viện trợ quân lực từ vua
Khotan, ông ta đã không thể dẹp được loạn quân này. Ông ta buộc phải chạy trốn trong sự bẽ mặt đến vùng núi của Tứ Xuyên. Các lực lượng nhà Đường cuối cùng đã thành công chỉ bằng cách cầu cứu những người Duy Ngô Nhĩ ở Mông Cổ đến cứu hộ.
Trong khi chiến đấu với quân nổi dậy ở Trường An và Lạc Dương, người Duy Ngô Nhĩ đã cướp bóc và phá hủy cả hai thành phố này, bao gồm nhiều ngôi chùa Phật giáo
và những tu viện được tìm thấy trong thành phố. Tuy nhiên, như
là một kết quả của việc tiếp xúc
với những cộng đồng thương gia Sogdian ở đây, Bogu Qaghan, hoàng đế của
người Duy Ngô Nhĩ, đã tiếp nhận tín ngưỡng Manichaean (Ma Ni giáo) được duy trì bởi hầu hết các thương nhân. Sau đó, ông ta tuyên bố nó là tôn giáo của quốc gia
thuộc về dân tộc Duy Ngô Nhĩ vào năm 762. Mặc dù An
Lộc Sơn đã được một nửa Sogdian, rõ ràng là các phiến quân nổi loạn hầu hết là người Hán Trung Quốc và không phải từ trong cộng đồng phi Hán. Nếu không thì Bogu Qaghan đã có được sự chiến đấu chống lại người Sogdians và vì vậy sẽ không tiếp nhận tôn giáo của họ.
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Duy Ngô Nhĩ đã thay đổi tôn giáo quốc gia của mình từ Shaman giáo đầu tiên đến Phật giáo, sau đó là Ma Ni giáo,
và sau đó trở lại với Phật giáo trước khi cải sang đạo Hồi cuối cùng. Trước đó Đông Thổ Nhĩ Kỳ đã đến với Phật giáo từ Shaman giáo và sau đó trở lại với Shamanism. Chúng ta hãy kiểm tra một số lý do có thể đối với sự thay đổi tôn giáo này giữa hai dân tộc gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Nó có thể giúp chúng ta hiểu tốt
hơn các cơ chế đằng sau việc chuyển đổi về sau của hầu hết các bộ lạc gốc Thổ Nhĩ Kỳ từ Phật
giáo hoặc Shaman giáo sang Hồi giáo.
No comments :
Post a Comment