
Phần II: Đầu Thời Đại Abbasid (750 - Giữa Thế Kỷ Thứ 9 CE)
8 Sự Cải Đạo của Người Eastern Turks (Đông Thổ Nhĩ Kỳ)
Sau sự sụp đổ của triều Hán năm 220 CE,
Phật giáo trở nên mạnh mẽ ở miền bắc Trung Quốc đã bị chia cắt và cai trị bởi một sự
thừa kế thuộc về dân tộc và quốc gia phi Hán Trung.
Người bảo trợ lớn nhất của Phật giáo trong họ là Toba, triều
đại Bắc Ngụy (386-535), kéo dài Nội Mông Cổ và
miền bắc Hán Trung.
Người Old
Turks, được ghi nhận là nhóm sớm nhất đã nói ngôn ngữ gốc Thổ Nhĩ Kỳ, họ rõ nét trên các trang của lịch sử như là một tầng lớp làm kim loại sống ở các thành phố của lĩnh địa Toba. Tuy nhiên, nguồn gốc của họ chắc chắn là một bộ lạc
du cư từ các
đồng hoang đến phía bắc kể từ
khi ngọn núi thiêng
liêng của họ, Otukan, được xác định tại trung
tâm Mông Cổ ở
phía bên kia của sa mạc Gobi
từ những vùng đất Toba cai quản.
Người Old Turks theo một tôn giáo truyền thống pha trộn Shamanism với những gì mà các học giả phương Tây đã
đặt tên "Tengrism",
một tín ngưỡng Thiên Đàng (Turk. Tengri) như vị Thượng đế tối
cao và tôn kính ngọn núi nào đó như là chỗ
ngồi của quyền lực. Tengrism không bao giờ là
một tôn giáo có tổ chức và đã xuất hiện trong nhiều hình thức và hầu như trong tất cả các dân tộc của các thảo nguyên Trung Á, như Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, và Tangut. Trong
hình thức Thổ Nhĩ Kỳ của nó, nó hỗ trợ cấu
trúc xã hộiThổ Nhĩ Kỳ được xây dựng trên cơ sở
của một hệ thống
phân cấp của
các bộ lạc. Một bộ lạc có ưu thế và lãnh tụ của nó
là nguồn gốc của một hệ thống kế thừa của những nhà cầm quyền đối với tất cả.
Hình thức Tengrism giáo của Thổ Nhĩ Kỳ lúc ấy quan hệ đến vị thủ lãnhThổ Nhĩ Kỳ kiểm soát Otukan như nhà cai trị tối cao (Turk. qaghan) của tất cả các bộ lạc
gốc Thổ Nhĩ Kỳ và là hiện thân về vận may của xã hội. Nếu vận may của xã hội Thổ Nhĩ Kỳ đã suy sập, qaghan (vị thủ lãnh) là người chịu trách nhiệm và thậm
chí có thể bị hy sinh. Con trai của ông sau đó
sẽ kế tiếp
vị
trí của ông ta.
Với một hệ thống tín ngưỡng như thế, người Thổ Nhĩ Kỳ lần đầu tiên đã bắt gặp Phật giáo tại
các thành phố Toba. Đặc biệt Phật giáo hình thức ở phía bắc Trung Quốc đã làm nổi bật sự thiết tha của công chúng và sự phục vụ của các tu sĩ với nhà nước. Phong cách xã hội này của Phật giáo đã dễ dàng phù hợp với những tư tưởng tưởng Tengrian giáo của người Thổ Nhĩ Kỳ của hệ thống phân cấp bộ lạc.
Không hài lòng với sự cai trị của Toba, phần lớn người Thổ Nhĩ Kỳ di
chuyển về phía tây Cam Túc,
dưới sự thống trị của nhà nước Ruanruan (400-551).
Đế chế Ruanruans cai trị những sa mạc, đồng cỏ, và các khu vực rừng từ Kucha đến biên giới của Hàn Quốc, bao
gồm một phần lớn của
Mông Cổ. Khi Ruanruan đã dần dần tiếp nhận các hình
thức Phật giáo của
người Tocharian và Khotanese
được xuất hiện trong những thành phố
ốc đảo Đông Turkistani mà họ kiểm soát và truyền bá nó khắp vương quốc của họ, người Old Turks cũng đã gặp phải hình thức ảnh hưởng Phật giáo này của người Iran. Trong một môi trường Zoroastrian (tín đồ đạo
thờ lửa), Đức Phật đã trở thành
một vị "vua của các vị vua",
một vị "Thượng đế của các Thượng đế."
Bumin Khan lật đổ
Ruanruan vào năm 551. Cho rằng vì sự bảo vệ khu vực Mount Otukan, ông ta tuyên bố mình là qaghan và thành lập Đế chế
Old Turk. Hai năm sau, nó tách ra thành một khu vực miền đông và một khu vực
miền tây.
Đế chế Eastern Turk (553-630), được thành lập bởi
con trai của ông ta, Muhan Qaghan (553-571) và
tập trung tại Mông Cổ, đã thừa kế di sản tinh thần Shamam và Tengrism giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Vì truyền thống tôn giáo này thiếu một cơ cấu
tổ chức, nó không đủ sức mạnh trong việc cung cấp một lực lượng thống nhất để xây dựng một
quốc gia mới. Nhìn đến các mô hình của những quốc gia Ruanruan và Toba
Wei, Qaghan nhận
ra rằng Phật giáo đủ khả năng đối với nhiệm vụ. Vì vậy, khi người Thổ Nhĩ Kỳ đã thực sự làm quen được với các hình thức của Phật giáo miền bắc Trung Quốc và Tocharian/Khotanese, vua Qaghan đã hăng hái thiết lập thêm sự liên lạc với đức tin này và làm cho
nó phù
hợp với vỏ bọc của truyền thống tín ngưỡng Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng như nhà sư Phật giáo cầu nguyện cho các phúc lợi của các quốc gia Phật giáo miền bắc
Trung Quốc, họ có
thể làm tương tự cho đế chế ĐôngTurk. Thêm nữa, giống như đoàn tùy tùng của Đức Phật được mở rộng để bao gồm tất cả các vị thần Zoroastrian, và Đức Phật
như là vị vua của họ, thì nó cũng có thể phóng to để thích ứng với nhiếu vị thần gốc
Thổ Nhĩ Kỳ (tengri)
Sau sự tan rã của đế chế Bắc Ngụy, người kế
nhiệm của của các nước nhỏ của nó vẫn tiếp tục bảo trợ Phật giáo miền bắc Trung
Quốc. Hai trong số họ là Bắc Tề (550-577) và Bắc Chu (557-581) đã trở thành những
nước chư hầu của đế chế Eastern Turks. Như một dấu hiệu của
tình hữu nghị, vị bộ trưởng Bắc Tề đã xây dựng một ngôi chùa Phật giáo theo
phong cách miền bắc Trung Quốc cho sáu nghìn người Thổ Nhĩ Kỳ đang sống ở
Trường An. Muhan
Qaghan sẵn sàng đáp lại cử chỉ bằng cách mời nhiều nhà sư người bắc Hán đến
thành trì của ông ta ở Mông Cổ để hướng dẫn cho người dân của mình.
Tiếp Nhận Ngôn Ngữ Sogdian cho Việc Sử Dụng Hành Chánh Thế Tục
Với tư cách là những người thừa kế đế chế
Ruanruan, người Eastern Turks (Đông Thổ Nhĩ Kỳ) đã cai trị vùng ốc đảo Tocharian của Turfan.
Nhiều nhóm dân tộc du mục trước đây từ những thảo nguyên Mông Cổ hoặc các vùng
ven sa mạc, chẳng hạn như Toba Wei đã tiếp nhận văn hoá Hán Trung và sau đó bị
mất đi đặc tính của họ. Nhận thức được tiền lệ này, Muhan Qaghan muốn tránh
điều này xảy ra tương tợ với người dân của mình. Vì vậy, ngay sau khi thành lập
Đế chế Eastern Turk của mình, ông ta đã hướng về cộng đồng thương gia Sogdian
của Turfan để qui định cho nó với một ngôn ngữ riêng (không phải chữ viết của
Trung Quốc) dành cho các mục đích hành chính và tài chính.
Qaghan đã chọn chữ viết Sogdian, vì nó là ngôn ngữ Trung Á duy nhất của lưu vực Tarim
Basin và
đến lúc để có một hình thức bằng văn bản. Việc sử dụng của nó thì được giới hạn với lãnh vực thế tục, ban đầu là kinh doanh, và điều này đã được tìm thấy không chỉ ở Turfan, mà còn
dọc theo con đường tơ lụa. Nó là ngôn ngữ địa phương, chẳng hạn như người Tocharian và Khotanese vẫn hoàn toàn nói bằng tiếng
Sogdian vào thời điểm đó.
Cuộc
Khủng Bố Tôn Giáo Tại Hán Trung và Sogdia
Giữa năm 574 và 579, vào triều đại thứ hai Eastern Turk qaghan,Tapar (trị vì 572-581), là những nước chư hầu của BắcTề và Bắc Chu thuộc về
đế chế Eastern Turk đã thành lập một cuộc
đàn áp Phật giáo. Nguyên nhân chủ
yếu là do sự tác động của lòng ganh tị đối với sự ủng
hộ của chính phủ đối với những chùa viện của những những người Đạo giáo làm bộ
trưởng. Nhiều nhà sư Hán Trung và bốn nhà phiên dịch từ Kabul đến thăm viếng Gandhari Buddhist, dẫn đầu bởi Jinagupta (528-605), chạy
trốn khỏi Trường An đến cung điện Eastern Turk. Ở đây, họ gia nhập với mười Tăng sĩ Hán Trung vừa trở về từ Ấn Độ với 260 bộ kinh văn Phật giáo dành cho việc phiên dịch và những vị sư này, giống như họ, cũng đã nhận được sự tị nạn.
Vào khoảng thời gian tương tự khi sự phát triển này ở phía bắc Hán Trung Quốc, hoàng đế
Sassanid, Khosrau I (r. 531-578), đã đàn áp khốc liệt Ma Ni giáo với điều mà ông ta coi như những
phái Zoroastrian dị giáo ở Iran và Sogdia.
Điều này gây ra một làn sóng mới di cư của người tị nạn tôn
giáo đến các thành phố ốc đảo Đông Turkistan.
Do những nỗ lực của các nhà truyền giáo Manichaean,
Mar Shad Ohrmizd
(mất 600), người đi cùng những người nhập cư Sogdians - đặc
biệt là ở Turfan - bắt đầu cho việc dịch thuật kinh sách đầu tiên của phái Ma Ni giáo sang ngôn ngữ của họ từ phiên bản gốc Parthia và Syria được sử
dụng tại quê hương của họ. Hầu hết họ đã dùng bước này bởi vì họ đã được thuyết
phục về sự cần thiết cho cộng
đồng tôn giáo của họ là độc lập đối với những đổi thay của chính trị ở quê hương và để trở thành tự chủ.
Sự
Phiên Dịch Kinh Điển Phật Giáo Đầu Tiên Sang Ngôn Ngữ Tocharian
Tại khu vực Đông Turkistan
cho đến khi thời gian này, kinh điển Phật giáo được viết, nghiên cứu, và đọc tụng chủ yếu trong các ngôn ngữ gốc Ấn Độ thuộc về tiếng Sanskrit hay tiếng Gandhari
Prakrit, hoặc đôi khi trong bản dịch của Trung
Quốc. Không có bằng chứng về kinh văn Phật giáo được dịch
sang các ngôn ngữ Trung Á đến
lúc này, không có nhiệm vụ ghi chép. Các dấu hiệu đầu tiên
của hoạt động như vậy chỉ xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ
sáu.
Những tài liệu củaTocharian sớm nhất xác định từ thời kỳ này và là
các bản dịch kinh sách Phật giáo từ tiếng Sanskrit vào phương ngữ Turfanese. Có lẽ
những Phật tử Tocharian của Turfan đã có cảm hứng từ người Ma Ni giáo Sogdians ở giữa họ để thực hiện bước này, cũng để đảm bảo bản sắc văn hóa độc lập và tự chủ của họ. Mặc
dù trước đó những Đạo sư Phật giáo người Tocharian, chẳng hạn như ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, 344-413) đã tích cực tham gia trong việc phiên
dịch kinh văn Ấn Độ sang Trung Quốc, người Tocharians đã tiếp tục duy trì hình thức riêng của họ về Phật giáo dựa
trên kinh điển tiếng Sanskrit. Bởi vì họ xem các ốc đảo dọc theo
vùng ven phía bắc của Tarim Basin như là quê hương của họ và không
tiếp xúc với gốc
rễ châu Âu của họ, và bởi vì
các thành phố của họ đã được cai trị bởi sự kế thừa của các triều
đại nước ngoài, vấn đề của việc duy trì một bản sắc văn hóa độc lập sẽ là quan trọng
đối với họ. Các cuộc đàn áp Phật giáo
tại Hán Trung chắc chắn đã châm thêm trọng lượng cho sự quyết định để mô tả ngôn ngữ của họ và phiên dịch kinh điển của họ.
Người Sodian Bỏ Qua Việc Dịch
Kinh Điển Phật Giáo Sang Ngôn Ngữ Riêng của Họ vào Lúc Này.
Tuy nhiên, cộng đồng Phật giáo Sogdian của Turfan không theo Ma Ni giáo Sogdian hoặc kiểu mẫu của phật giáoTocharian về việc dịch kinh điển của họ sang ngôn ngữ
của họ và việc giao phó mình đối với văn bản. Họ đã không dùng sự di
chuyển này cho thế kỷ khác đối với một sự phức tạp của các lý do hợp lý. Chúng ta hãy thiết định một số điều của họ.
Thứ nhất, người Sogdians của Đông Turkistan là các thương gia và thương nhân và,
không giống như ngườiTocharians, có lẽ đã không cảm
thấy lòng trung thành đặc biệt
đối với các quốc gia thành phố-nơi họ sinh sống. Họ không bao giờ coi chúng như là quê
hương của họ, nhưng thay vào đó họ chỉ nhìn đến quốc gia Sogdia. Họ thiết lập một bản sắc cá
nhân, vì quê hương bị chiếm đóng, ở nơi mà họ hiện đang sống là không thích hợp đối với họ.
Thứ hai, cộng đồng của người Sogdian yêu nước ở Đông Turkistan là đa tôn giáo. Họ đã được thống nhất bởi nghề nghiệp
của họ và ngôn ngữ bằng văn bản được sử
dụng cho thương
mại của họ. Không giống như người Tocharians, họ không cần phải sử dụng tôn giáo cho mục đích này. Hơn nữa,
không giống như
người Ma Ni giáo Sogdians không có phương hướng để hướng đến cho sự ủng hộ tôn giáo ngoại trừ quốc gia Sogdia và lãnh thổ của đế chế Sassanid, Phật tử Sogdian của
Turfan có thể hướng về phía
người Hán Trung Quốc. Họ dường như không có tham gia đặc biệt đối với ngôn ngữ của kinh văn tôn giáo của
mình. Họ có vẻ cảm thấy thoải mái với
phiên bản tiếng Sanskrit và Gandhari
Prakrit được sử
dụng tại quê hương của họ, cũng như các bản dịch tiếng Trung Quốc mà họ cũng đã được trợ giúp để chuẩn bị. Mặc
dù cuộc đàn áp Phật
giáo tại Hán Trung và tình hình tôn giáo không ổn định
tại Sogdia, họ dường như không thấy bất kỳ lý do gì để phiên dịch các kinh văn của họ sang ngôn
ngữ riêng của họ vào thời điểm này.
Nếu Phật tử Sogdian của Đông Turkistan muốn có sự khoảng cách từ sự bất ổn tôn giáo
tại quê hương của họ, họ có thể sử dụng
nhiều tiếngTrung Quốc trong việc thực hành
tôn giáo của họ. Mặt khác, người
Ma Ni giáo đồng bào của họ lúc này phải đối mặt với một tình huống tương tự khi không có sự lựa chọn
nhưng để thiết lập
truyền thống của chính họ trong tiếng mẹ đẻ của mình. Trong việc sử dụng ngôn ngữ Trung Quốc cho mục đích tôn giáo, Phật
tử Sogdian dường như không cảm thấy bản sắc văn hóa của
họ bị đe dọa, khi bản sắc được dựa
vào các yếu tố từ đời sống thế tục của họ.
Trong thực tế,
xu hướng của Phật tử Sogdian ở Đông Turkistan
dựa nhiều hơn vào các ngôn ngữ và truyền thống Trung Quốc trong đời sống tôn giáo của họ hầu
như hoàn toàn tiếp nhận sự thúc
đẩy từ làn sóng
người tị nạn Sogdian Manichaean vào giữa họ.
Những người mới đến cũng bác bỏ ngôn ngữ tôn giáo của nơi mà họ sinh ra.
Sự Phiên Dịch Kinh Điển Phật Giáo
Sang Ngôn Ngữ Old Turk
Tuy nhiên, Tapar Qaghan có những
sự ưu tiên khác nhau với người Sogdians. Là nhà cai trị của một đế chế mới được
thành lập, ông ta không muốn đối tượng của mình, người Eastern Turk dựa vào
ngôn ngữ Trung Quốc trong bất kỳ mọi cách. Người tiền nhiệm của ông đã theo
chính sách sử dụng tiếng nước ngoài trong lĩnh vực thế tục bằng cách áp dụng cả
tiếng Sogdian và chữ viết Sogdian. Khi người Sogdians không có quốc gia riêng
của họ, không có gì đe dọa trong sự thay đổi này. Với một làn sóng của các nhà
sư Hán Trung tị nạn vào lĩnh địa của ông ta, tuy nhiên, Tapar giờ cảm thấy nhu
cầu bức thiết để thiết lập một bản sắc cho sự độc lập của dân tộc mình từ người
Hán cũng như trong môi trường tôn giáo. Vì thế, ông đã chọn một sự hòa trộn của
Ấn Độ, bắc Trung Quốc, và mô hình Tocharian / Khotanese của Phật giáo, mở rộng
để bao gồm các khía cạnh của người Tengrian. Các cuộc đàn áp Phật giáo ở miền
bắc Trung Quốc gợi nhớ về cuộc đàn áp đối với Ma Ni giáo tại Sogdia đủ để
thuyết phục ông ta theo những kiểu mẫu Phật giáo Tocharian và Ma Ni giáo Sogdian
tại Turfan. Vì thế, ông ta thành lập một cơ sở dịch thuật ở thủ đô của mình tại
Mông Cổ để chuyển dịch kinh điển Phật giáo thành một hình thể ngôn ngữ Trung Á
duy nhất.
Để phù hợp với lĩnh
vực thế tục và thiết lập một nền văn hóa thống nhất
cao đối với người dân của mình, Qaghan muốn dùng ngôn ngữ Sogdian cho mục đích tôn giáo. Tuy nhiên,
Kinh điển Phật giáo với ngôn ngữ Sogdian không tồn tại vào thời điểm
đó. Người Sogdians thì ngày càng dựa trên các phiên bản Trung Quốc cho việc sử dụng cá nhân của mình. Nếu Qaghan không thể
có kinh văn Phật giáo trong ngôn ngữ Sogdian và nếu dùng các bản dịch mới của ngôn ngữ Tocharian chỉ dẫn đến sự rối rắm hơn nữa đối với người dân của ông ta khi chưa học ngôn ngữ của nước khác, chỉ có giải pháp khả thi cho
việc thiết lập sự thống nhất văn
hóa là có kinh văn Phật giáo bằng tiếng Turk Old, nhưng được viết bằng chữ viết thường tục của Sogdian. Do đó, ông ta mời những người Sogdians đến Mông Cổ và yêu
cầu họ ứng dụng bảng chữ cái của họ đối với các nhu cầu
đặc trưng của kế hoạch và giúp đỡ
các nhà sư tị nạn người Hán Trung tại sở dịch thuật hoàn thành nhiệm vụ này.
Một bậc thầy của
Gandhari, ngài Jinagupta,
đã đến với người Trung Quốc và là vị sư đầu tiên lãnh đạo
hội đồng phiên dịch này, điều này có thể dễ dàng đánh giá cao quyết định của Qaghan, trước đó ông ta đã có kinh nghiệm lâu dài tại Khotan và
do đó không bị ràng buộc với các hình thức nghiêm ngặt của HánTrung. Những bản dịch ngôn ngữ Old Turk (cổ ngữ Thổ Nhĩ Kỳ), rồi pha trộn ngôn ngữ Ấn Độ, bắc Trung Quốc và những yếu tố Phật giáo Tocharian / Khotanese
và các khía cạnh của Tengrism giáo, là điều Qaghan đã mong muốn. Kế hoạch đã thành
công như vậy, Phật giáo đã nhanh
chóng trở thành phổ biến trong quần chúng bình dân và thậm chí cả những người lính của vùng Đông Turk.
Phân Tích và Tóm Tắt
Một tính năng phổ biến
của lịch sử
Trung Á là những người sáng lập của các triều đại mới tiếp nhân một tôn giáo nước ngoài có thành lập, có tổ chức như là tín ngưỡng nhà nước hợp pháp để thống nhất người dân
của họ. Điều này hầu hết thường xuyên xảy ra khi
các truyền thống tôn
giáo bản địa của họ hoặc hoàn toàn được phân quyền, hoặc được dẫn
đầu bởi phe bảo thủ có ảnh hưởng đã đối kháng với quy tắc mới. Các thế lực nước ngoài theo tôn giáo mà họ đã tiếp nhận, tuy nhiên, không thể là quá mạnh, nếu không triều đại
mới phải đối
mặt với mối đe
dọa mất bản sắc và sự độc lập của nó.
Đông Turks do đó đã chuyển sang Sogdians,
và không để
người Hán Trung giúp họ thống nhất đế quốc của mình. Một lý do khác cho sự lựa chọn
này là chắc chắn
rằng các thương nhân người Sogdian đô thị đã giải
thích cho người du mục Turk về những thảo nguyên, ý nghĩa của con đường Tơ Lụa trên lãnh thổ mà họ đã chinh phục
và đã thuyết phục họ về tầm quan trọng của nó. Các nhà lãnh đạo Turk
nhanh chóng nhận ra rằng
sự hợp nhất với Sogdians sẽ có lợi ích kinh tế
rất lớn cho chính họ.
Hơn nữa, mặc dù tôn giáo
chính của người Sogdians là Ma Ni giáo, không phải Phật giáo mà Đông Thổ Nhĩ Kỳ
đã chuyển sang sau này,nó không phải gốc
xưa, nhưng là tôn giáo thống nhất của họ. Điều này có lẽ bởi vì, dù sự trì trệ
tạm thời của Phật giáo ở miền bắc Trung Quốc trong thời gian những năm 570s,
Phật giáo là tôn giáo mạnh nhất của khu vực vào thời điểm đó.
Sự khôn ngoan của việc lựa
chọn của người Đông Thổ Nhĩ Kỳ về các tôn giáo mới đã được củng cố, đến năm
589, vua Văn Đế (Wendi), người sáng lập triều đại nhà Tùy (Sui) đã thành công
trong việc tái thống nhất đất Hán bằng chiến thắng tập hợp đằng sau các biểu
ngữ của Phật giáo. Tôn giáo Ấn Độ qua đó đã chứng tỏ quyền năng siêu nhiên của
nó trong việc củng cố nhưng với ngôi nhà triều đại mới khác. Sự khôn ngoan của
người Thổ Nhĩ Kỳ trong việc quyết định thực hành tôn giáo này bằng ngôn ngữ riêng
của họ và trong chữ viết của người Sogdian đã tái củng cố lần nữa
khi họ quản lý để không bị tiêu tan trong sự tập hợp của quân đội nhà Tùy
xuyên qua miền bắc Hán Quốc.
Hơn một trăm năm sau, khi
Tonyuquq thuyết phục triều đại Thứ Hai Eastern Turk từ bỏ Phật giáo và trở lại với phong tục và sự thực
tiễn của phái Tengrim và truyền thống Turkic Shaman, lý do chính là Phật giáo
đã chứng tỏ tự thân yếu đuối bằng cách để cho nhà Đường Trung Quốc kết thúc triều
đại Thứ Nhất Eastern Turk vào những năm 630s. Sự thành công trong việc cung cấp
năng lượng siêu việt vì lợi ích quân sự và chính trị, theo đó dường như đã là
tiêu chuẩn chính được sử dụng bởi người Thổ Nhĩ Kỳ và người Mông Cổ và những người gốc Thổ Nhĩ Kỳ khác
cho việc chọn lựa một tôn giáo.
No comments :
Post a Comment