Phần II: Đầu Thời Đại Abbasid (750 - Giữa Thế Kỷ 9 CE)
10 Sự Tranh Chấp của Bè Phái Hồi Giáo và Sự Tuyên Ngôn của Chiến Tranh Hồi Giáo
Sự Bất Hòa giữa Các Bè Phái Hồi Giáo vào Đầu Thời Kỳ Abbasid
Đế chế Abbasids đã thành công trong việc trục xuất các lực lượng nhà Đường từ Tây Turkistan và các cuộc nổi loạn An Lộc Sơn tại Trung Quốc và đã làm suy yếu nghiêm trọng sự lèo lái của nhà Đường ở Kashgar, Kucha, Turfan, và Beshbaliq. Tuy nhiên, không phải là người Ả Rập, nhưng người Qarluqs và người Tây Tạng đã lợi dụng khoảng trống quyền lực. Người Qarluqs di chuyển về phía nam, chiếm Suyab, Ferghana, và cuối cùng là Kashgar, trong khi người Tây Tạng tái củng cố quyền lực của họ đến các thành phố chính phía nam của Tarim Basin, đặc biệt là Khotan, khu vực họ tái chiếm vào năm 790. Người Tây Tạng cắt đứt mọi liên lạc giữa hoàng gia Khotanese và cung điện nhà Đường. Tuy nhiên, nhà Đường đã duy trì một tiền đồn nhỏ ở Kucha và đã chiến đấu với một cuộc chiến tranh ba chiều kéo dài với người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ đến vùng Turfan và Beshbaliq.
Các đế chế Abbasids chưa bao giờ có thể mở rộng đến bất kỳ khu vực nào tại Tây Turkistan mà trước đó thuộc về sự
cai quản của Nhà Đường bởi vì họ gần
như đã trở
thành bị lôi kéo trực
tiếp vào cuộc chiến đấu phe phái Hồi giáo
tại Sogdia. Khi vua caliph thứ hai, al-Mansur
(r. 754-775) lên
ngôi, ông ta
có Abu Muslim (người lãnh đạo Hồi giáo) người
Shiite
Bactrian đã giúp các đế chế Abbasids thành lập triều đại của họ, và dẫn đến cái chết. Mặc dù người tiền nhiệm của ông ta
là Abu l'Abbas, đã thể hiện lời hứa của sự
cai trị phi đảng phái đối với
tất cả các đối tượng phi Ả Rập trong lĩnh địa
rộng lớn của ông ta, al-Mansur
đã phục hồi quyền
ưu tiên cho dân tộc Ả Rập dòng Sunni của Hồi giáo
Umayyad. Sau đó, các
địch thủ Sogdian với quyền lực Abbasid đã lập nên sự bảo vệ nền văn hóa Iran của họ
sau
khi Abu Muslim chết để chống lại sự thống trị
của Ả Rập. Sử dụng việc
tử đạo của
ông ta để tập hợp các cuộc nổi loạn của
họ xung quanh việc trả thù cho cái chết của ông ta, cuối cùng họ xem Abu
Muslim là một
nhà tiên
tri.
Abu Muslim ban đầu đã sử dụng cờ hiệu của mình bằng một lá cờ màu đen tượng trưng cho ngôi
nhà của Ali. Các đế chế Abbasids theo tiền lệ
này và dùng
màu đen cho cả cờ
hiệu và trang
phục của họ. Các
phiến quân Hồi giáo Abu, Những mgười phản đối
Abu Muslim, với sự bảo vệ, đã sử
dụng màu
trắng cho các biểu ngữ và quần áo của họ,
màu này xuất hiện cũng là màu sắc
linh thiêng của
tín đồ Ma Ni giáo (Manichaeans) và được sử dụng cho áo choàng của
họ. Hình dung từ Syriac đối với Ma Ni giáo là "Những
người với áo
choàng trắng"
(Those With White Growns).
Ma Ni giáo đã có nhiều hình thức, pha trộn với Zoroastrianism (đạo thờ Thần lửa), Thiên Chúa giáo, hay Phật giáo để cộng
hưởng với các
dân tộc từ
các nền văn hóa khác nhau. Ý tưởng tinh vi
của nó đã lôi cuốn nhiều công
chức trí thức trong
cung điện Abbasid, những
người đã phát triển một giáo phái
Hồi giáo được kết hợp Ma Ni giáo với Hồi giáo Shia. Các nhà
chức trách Abbasid, như người bảo hộ của chính thống, cuối
cùng xem các giáo phái Manichaean Shiite
như là một mối đe dọa. Dán nhãn dị giáo cho nó, họ nghi ngờ
những tín đồ của nó có quan hệ đồng cảm với những kẻ nổi loạn Abu Muslim chống
Abbasid tại Sogdia, và
do đó đã
bức hại họ. Mặc dù Manichaean Shia đã
không tồn tại như
một giáo phái Hồi giáo riêng biệt,
nhiều tín đồ của nó về sau đã hấp thụ vào giáo phái Ismaili của
Shia. Cuối cùng, nó cũng đã trở thành một
đối tượng của sự khủng bố tàn khốc bởi các đế chế Abbasids.
Trong thời gian của triều đại caliph kế tiếp, al-Mahdi (r. 775-785), hầu hết người Sogdia đã chịu ảnh hưởng kiểm soát của phiến quân mặc áo choàng trắng, dưới
sự lãnh đạo
của al-Muqanna, "Veiled
Prophet (nhà Tiên tri che mạng)", một thành viên
của Abu Muslim . Oghuz Turks, những người cũng mặc màu trắng,
đã viện trợ quân sự cho phiến quân nổi loạn, mặc dù họ chưa bao giờ tiếp nhận Hồi giáo. Lúc này, các phiến quân Sogdian
theo một giáo phái Hồi giáo mới, Musalemiyya, pháp
lệ của giáo phái này đã khác hẳn với nhiều truyền thống chính thống, chẳng
hạn như cầu nguyện năm lần một ngày. Vì vậy, các
chiến dịch Abbasid trấn dẹp phiến quân Sogdian và đồng minh Oghuz Turk của họ cũng trở thành
những chiến dịch để bảo vệ sự thuần khiết của Hồi giáo.
Sự Phá Hủy Những Tu Viện Tại Valabhi của Đế
Chế Abbasid
Năm 780, lực lượng Abbasid đè bẹp một cuộc nổi loạn ở Bukhara, nhưng
những
cuộc nổi dậy khác tiếp tục. Đế chế Abbasids trở nên lo
lắng với
sự đàn áp những cuộc nổi loạn và với việc giữ gìn
sự tinh khiết của Hồi
giáo chống lại các giáo phái Musalemiyya
và Manichaean
shia. Sự
cấp bách và tính
khắc nghiệt của họ trong việc
đối phó với dị giáo liên quan đến
những phần
tử Manichaean có lẽ được
củng cố bởi các cựu
giáo
sĩ Zoroastrian, những người đã chuyển đổi sang Hồi
giáo và tư vấn cho chính phủ để thực thi theo mô
hình Sassanid của chủ nghĩa độc quyền trong vấn đề tôn giáo.
Vào đầu những năm 780s, các nhà
lãnh đạo Abbasid tại Sindh tấn công
Saurashtra và phá
hủy cục diện
lớn của tu viện Phật giáo tại Valabhi. Sau sự sụp đổ của
triều
đại Rashtrakuta năm 775, các tổ chức tôn giáo không
có sự bảo trợ của hoàng gia
và bị tổn thương trầm trọng. Tuy nhiên, sự hủy
diệt này phải được hiểu
trong bối cảnh của
các cuộc nổi dậy ở Sogdia và sự đàn áp những phong trào Musalemiyya
và Manichaean Shia.
Valabhi không chỉ là trung tâm
nghiên cứu Phật giáo, nó cũng là một những nơi thiêng liêng nhất của
giáo phái Shvetambara
của Kỳ Na Giáo. Nó
có rất nhiều ngôi đền Kỳ Na giáo (Jain), và những binh lính của Abbasid
san bằng chúng không
chỉ có đền chùa Phật giáo. Trong thực tế, những ngôi đền Kỳ
na giáo rất có thể ở trong tất cả các mục tiêu quân sự chính của họ. "Shvetambara"
có nghĩa là "Những người trang
phục với màu trắng”, như nhà sư
của truyền thống này mặc áo choàng màu sắc này.
Không còn nghi ngờ đặc tính
không đồng nhất mà các thành viên của giáo phái Kỳ
Na giáo như là đồng minh của phe
che mạng trắng của phiến quân Abu Muslim Musalemiyya, những người ủng hộ Orghuz Turk và người
phái Manichaean Shiites, những người lãnh đạo Ả Rập Sindhi
tự nhiên có cảm
nhận chúng như là một mối đe dọa
và đã cảm thấy chúng phải được loại bỏ. Tại Valabhi, họ không có phân biệt được các ngôi đền Kỳ
Na giáo từ các tu viện Phật giáo, và do đó họ đã phá hủy tất
cả mọi thứ.
Lịch sử phổ biến thường
xuyên trích dẫn sự tàn phá Valabhi như
là một ví dụ của Hồi giáo cực đoan đối
với các tín
ngưỡng khác,
chúng ta hãy xem xét chính sách tôn giáo của đế chế Abbasid như một tổng thể để đánh giá khách quan hơn bản án quyết định của các nhà sử học.
Chính sách Khác Biệt Đối Với Ma Ni Giáo và Các Tôn Giáo Phi Hồi Giáo Khác
Mặc dù cuộc thánh chiến của họ chống lại các giáo phái Musalemiyyas và Manichaean
Shiite, và tại
Saurashtra chống đối
với tín đồ Kỳ Na giáo và Phật tử-những
người mà họ
rất có thể nhầm lẫn như người ủng hộ của các giáo phái đó, các đế chế caliph Abbasid đầu tiên đã
tiếp tục chính sách Umayyad
khoan dung đối với các tôn giáo
phi Hồi giáo.
Họ hầu hết
được thừa nhận bảo vệ tình trạng dhimmi (giữ đạo) Phật giáo, Zoroastrian,
Ki Tô Nestorian, và Do Thái giáo của
chính mình. Chỉ có người phi Hồi giáo trong
lĩnh địa của họ bị khủng bố là những người tuyên bố tín ngưỡng Manichaean (tín đồ Ma Ni giáo).
Một cách vô ý, người Ả Rập đã
tiếp tục chính sách chống
Ma Ni giáo của những người tiền nhiệm của họ tại Sodia, đế chế Sassanids, và nhà
Đường, nhưng vì
những lý do khác nhau.
Thứ nhất, tín hữu Ma Ni giáo chắc chắn đã định hình trong tâm trí của người Ả Rập
với giáo phái Manichaean
Shiite. Thứ
hai, với phong
trào truyền giáo mạnh mẽ của
nó và để vượt qua được bóng tối và vũng lầy của
thế giới này, Tín đồ Ma Ni giáo tiếp tục thách thức sự
lôi cuốn của Hồi giáo chính
thống giữa các phái Hồi giáo phức tạp trong
triều đình Abbasid. Bất kỳ
tín đồ Hồi giáo nào đã nghiêng người về phía Ma Ni giáo vì vấn đề tâm linh đều bị buộc tội là một người
của phe
Manichaean Shiite, nói cách khác, một
kẻ nổi loạn chống đế chế
Abbasid.
Sự Quan Tâm Lớn của Đế Chế Abbasids đối với Văn Hóa Ấn Độ
Không chỉ là những đế chế Abbasids đầu tiên chấp nhận tình trạng đối tượng
được bảo vệ đối
với tín hữu phi- Ma Ni giáo giáo và
phi- Hồi giáo trong lĩnh địa của họ, họ đã có
sự quan tâm rất lớn trong nền văn hóa nước ngoài, đặc biệt là Ấn Độ. Mặc dù người Ả
Rập và Ấn Độ đã có rất nhiều sự quan hệ về kinh tế và văn hóa từ
trước thời Hồi giáo, với các thương
gia và người định cư từ mỗi nhóm
sống trong các khu vực khác, cuộc chinh phục của Umayyad, và
sự chiếm đóng thường xuyên của Sindh thậm chí đã kích thích sự trao đổi lớn hơn. Ví dụ, năm 762, Caliph
al-Mansur (r. 754-775)
đã hoàn thành
sự
xây dựng thành
phố Baghdad, thủ đô mới của đế chế Abbasid. Không chỉ là những kiến trúc sư và
kỹ sư Ấn Độ thiết kế
thành phố, thậm chí họ đã đặt tên cho nó từ tiếng Phạn
Bhaga-dada, có nghĩa là "Món
quà của
Phạm thiên."
Năm 771, một nhiệm vụ chính trị từ Sindh đưa tài
liêu về
thiên văn học Ấn Độ đến Baghdad, đánh dấu đầu tiên sự quan tâm của người Ả Rập trong lãnh
vực này. Vua
caliph Abbasid nhận ra tầm quan trọng của
việc
tính toán thiên văn
và địa lý chính
xác hơn cho mục đích tôn giáo,
cụ thể là để xác định
chính xác phương hướng Mecca và thời
gian của mặt trăng mới. Ông cũng đánh giá
cao nền văn minh Ấn Độ đã phát triển cao nhất về khoa học trong khu vực, không chỉ trong
những lãnh vực này, nhưng
còn trong toán học và y học. Thực tế
rằng các
ngành khoa
học này đã phát
triển trong một bối cảnh phi-Hồi giáo và không loại trừ tất
cả sự mở rộng của người Ả Rập đối với chúng.
Vua
caliph kế tiếp, al-Madhi (trị vì: 775-785) người đã cho binh lính phá hủy Valabhi, xây
dựng một văn phòng dịch thuật (Arab.
Baitu'l Hikmat) với các học giả từ tất
cả các nền văn hóa và tôn giáo khu vực dịch
thuật tài liệu, đặc
biệt là về các
chủ đề khoa học sang tiếng Ả rập. Một số lượng lớn của những tác phẩm này có
nguồn gốc Ấn Độ, và không phải những nhà phiên dịch Sindhi của họ hoàn
toàn là người Hồi giáo, nhiều
người Ấn giáo
và Phật tử. Đế chế Abbasids rõ ràng thực tiễn và quan tâm đến kiến thức. Về cơ bản, họ không chống
đối người Ấn Độ hoặc các
tôn giáo nước ngoài phi- Manichaean. Các vua caliph của họ dường như thực
thi nghiêm túc pháp lệnh Hadith của
nhà Tiên tri để "tìm kiếm kiến
thức, ngay cả nếu nó là ở Trung Quốc."
Chính sách không
giáo phái, phóng
khoáng đối với việc tìm
kiếm kiến
thức không phải là một trào
lưu nhất
thời, nhưng
vẫn tiếp tục với đế chế caliph tiếp theo, Harun al-Rashid (r. 786-809) đã mở rộng hơn
nữa. Ví dụ, bộ trưởng của ông ta, Yahya ibn
Barmak, là một cháu
trai của người Hồi giáo cũng
là một trong những người đứng đầu hành
chính Phật giáo (Skt. pramukha) của tu viện Nava Vihara. Dưới sự
ảnh hưởng của ông
ta, vua Caliph mời thêm nhiều học giả và các
vị đạo sư từ Ấn Độ đến Baghdad, đặc biệt thêm
nhiều Phật tử. Ở đây, các học giả Phật
giáo chắc chắn đã biết
được xu
hướng đối với giáo phái Manichaean Shia trong giới trí thức của triều đình Abbasid và các mối
đe dọa với các nhà
cầm quyền nhận thức về chúng.
Có kinh nghiệm chuyên môn
trước đó trong các văn bản khoa
học, văn phòng dịch
thuật
bấy giờ đã bắt đầu ấn hành
những tác phẩm cũng thuộc về tính chất tôn giáo. Ví dụ, một phiên bản tiếng Ả Rập xuất hiện vào thời gian
này thuộc về tư liệu tiền kiếp của Đức Phật, có tên là Kitab al-Budd, dựa trên hai
văn bản tiếng Sanskrit: Jatakamala và Buddhacharita của
Ashvaghosha. Những phần của nó đã được kết
hợp vào thiên
sử thi
Kitab Bilawhar wa Budhasaf của Aban al-Lahiki (750-815),
một nhà thơ của Baghdad. Mặc dù phiên bản của ông
ta không
còn hiện hữu, sau đó có nhiều người đã viết trong nhiều ngôn ngữ. Phiên
bản tiếng Ả Rập sớm nhất còn sót là của Ibn Babuya Qum (mất 991). Tác
phẩm này thông qua từ các tài
liệu Hồi giáo đến văn chương Kitô
giáo và DoThái như là huyền thoại của
Barlaam và Josaphat,
vẫn còn duy
trì
nhiều giáo lý Phật giáo. Một ví dụ khác về sự
tiếp thu cái mới của đế chế Abbasia đối với Phật giáo là Kitab al-Fihrist,
một bản chương mục của cả văn bản Hồi
giáo và phi Hồi giáo được chuẩn bị trong thời gian này, trong đó bao gồm một danh sách các tác phẩm Phật giáo.
Sự Phát Triển của Hồi Giáo giữa Những Thành Phần Phi-Hồi Giáio Tại West Turkistan
Harun al-Rashid là nhà lãnh đạo tuyệt nhất và đã mở mang hầu hết đế chế Abbasid caliphs. Dưới sự trị vì của ông ta, thơ ca,
văn học, triết học, khoa học, y học, và nghệ
thuật Ả Rập đều được phát
triển. Trong suốt thời gian của mình,
nền văn hóa Hồi giáo đã có một sự phát
triển mời gọi chưa từng có đối với người phi-Hồi giáo, thành phần quí tộc phi-Hồi giáo, địa chủ, và cư dân thành phố Tây Turkistan,
những
người mà tâm tính hoàn toàn khác nhau từ các
chiến binh du mục thảo nguyên.
Do đó, những người này dần dần cải sang tín ngưỡng Hồi giáo ngày
càng tăng. Các tôn giáo phi -Hồi giáo được
bảo vệ, chẳng hạn như Phật giáo,
vẫn còn mạnh mẽ là giữa
các tầng
lớp nông dân nghèo ở nông thôn, tầng lớp này đã thực hành giáo lý Phật giáo thậm chí còn nghiêm ngặt hơn trước, khi họ bắt đầu trở thành nhân chủng và tôn giáo
thiểu số. Đặc biệt là họ đổ xô đến các đền
thờ thánh tích để thực tập tu dưỡng.
Đánh
Giá Về Sự Phá Hủy Valabhi
Tiếp đên, việc tiêu hủy các tu viện Phật giáo tại Valabhi
của đế chế Abbasid phải được nhìn nhận trong bối cảnh của bức
tranh lớn
hơn này.
Hồi giáo trong tình trạng chiến thắng sự cải đạo ở Sogdia và Bactria tại thời
điểm này, không phải bởi
thanh kiếm, nhưng sự hấp dẫn của nó mức độ cao của nền văn hóa và học
tập. Phật giáo đương
nhiền tràn đầy những học giả và văn hóa uyên bác. Tuy
nhiên, để hiểu nó, người ta cần phải nhập vào một tu
viện. Tu viện Nava Vihara, mặc
dù vẫn còn hoạt động trong thời gian này, danh tiếng đã giảm và chỉ là một cơ sở
học tập nghiên cứu, có nhiều Phật tử. Các trường
đại học lớn nhất của Phật giáo trong thời gian này, chẳng hạn như Nalanda, cách xa trung tâm của miền bắc Ấn Độ. Vì vậy, mạnh mẽ hơn và dễ
dàng tiếp cận với văn hóa và nghiên cứu Hồi giáo ở Trung Á, nó lấn khuất Phật giáo trong
những tầng lớp cao có học vấn ở đô thị, tuy nhiên nó là một cơ chế hòa bình.
Việc tiêu hủy tại Valabh là một ngoại lệ đối
với xu
hướng tôn giáo nói chung và chính sách
của nhà cầm quyền thời kỳ đầu của
Abbasid. Có hai cách giải
thích chính đáng với điều
này. Đó là
hoặc hành động riêng của kẻ cuồng tín thông
thường, hoặc là một mệnh
lệnh sai lầm do người Ả Rập nhầm
lẫn địa phương của người Kỳ Na giáo "White-clad" (che mạng trắng) và những người ủng hộ Abu Muslim và rồi không phân biệt được đâu
là Phật tử
đâu
là Kỳ Na giáo. Nó không phải là
một phần của một cuộc thánh chiến
đặc biệt đối với Phật giáo.
Theo nghĩa đen Ả Rập từ Jihad (thánh chiến) có nghĩa là "phấn đấu", cụ thể là để phục vụ Allah.
Nó không có nghĩa là các cuộc thánh chiến là
nhằm mục đích chuyển đổi kẻ ngoại
đạo bằng vũ lực đối với đức tin duy
nhất. Đúng
hơn, nó là
hành động quân sự để bảo vệ tín
hữu Hồi
giáo những
người đang bị tấn công trong
việc thực hành Hồi giáo
thuần túy hoặc bị ngăn chặn một vài cách từ đời sống tinh
thần của họ. Các Phật tử của Valabhi không đe dọa Hồi giáo và do
đó nhầm lẫn mục
tiêu bởi cuộc thánh chiến chính
đáng.
Sự Xâm Lược của Đế Chế Abbasid đối với
Gandhara
Mặc dù lực lượng Qarluqs và Abbasids đã đánh bại
nhà Đường Trung Quốc tại Talas River năm 751, Qarluqs đã mở rộng đến Suyab, Ferghana và Kashgar, sau
đó phá vỡ liên minh của họ với người Ả
Rập và gia nhập với người Tây Tạng và chư hầu của họ, bộ tộc
Turki Shahis thủ đô Kabul. Họ
cũng gia nhập với người White-Clad Oghuz, những người đã và đang hỗ trợ cho các phiến quân Abu
Muslim trong nỗ lực phối hợp để giành quyền kiểm soát của Abbasid Sogdia và
các Bactria. Do
đó,khối liên minh ủng
hộ hơn nữa cho
các cuộc
nổi loạn của phái Abu Muslim chống lại đế chế Abbasids, chẳng hạn như người lãnh đạo Rafi
bin-Layth tại Samarkand từ năm 806-808. Lực lượng kết
hợp của họ thậm chí bao vây Samarkand để hỗ
trợ các phiến quân.
Caliph al-Rashid
qua đời năm 808 trên
con đường dập tắt cuộc nổi loạn. Sau
khi chết, đế chế của ông
ta được phân chia cho hai người con trai theo mong ước của ông ta. Tuy nhiên, hai người con trai này
duy trì hòa
bình tạm
thời với những người Tây Tạng
và các đồng minh của họ để họ có thể chiến đấu với
cuộc nội chiến nhằm đạt được toàn quyền kiểm soát toàn bộ của sự
thừa kế hoàn toàn của cha mình. Al-M'amun chiến
thắng và trở thành vua Caliph tiếp theo (r. 813-833). Chắc
chắn vì việc đổ lỗi cho liên
minhTây Tạng-Turki Shahi-Qarluq-Oghuz đối
với cái
chết của cha mình, và sự liên kết nhiều với những cuộc nổi loạn Abu Muslim
Musalemiyya tại Sogdia, ông ta đã
tuyên bố một cuộc thánh
chiến và đưa Tướng al-Fadl bin-Sahl phát động một cuộc
tấn công quy mô vào lãnh thổ Turki Shahi
tại Gandhara.
Năm 815, người Abbasids đã đạt được chiến thắng, và nhà cai trị Turki Shahi, được gọi là Shah Kabul, đã buộc phải đến trình diện với
vua caliph ở Merv và cải
sang Hồi
giáo thuần túy. Như là một bằng chứng về sự
quy phục của nước mình, ông ta đã gửi một bức tượng Phật
bằng vàng đến Mecca, nơi nó được
cất giữ trong hai năm tại ngân
khố Kaaba. Nó được hiển thị cho công chúng với sự thông báo rằng Allah đã dẫn
Vua Tây Tạng đến
với Hồi
giáo. Với điều này người Ả
Rập đã
gây nhầm lẫn vua Tây
Tạng với chư hầu của ông ta, làTurki Shah
của Kabul. Năm
817, người Ả Rập đã nấu
chảy bức tượng Phật này tại Kaaba để đúc
thành những đồng
tiền vàng.
Sau khi
thành công trong việc chống lại đế chế Turki Shahis, lực
lượng đế chế Abbasids đã tấn công khu vực thuộc quyền kiểm soát của Tây tạng
tại Gilgit và trong một thời gian ngắn cũng đã sáp nhập nó. Họ đã
gửi một chỉ huy Tây Tạng bị bắt làm
tù binh trở về Baghdad trong sự sỉ nhục. Mặc dù đánh đuổi người Tây Tạng và chiếm
Ferghana từ người Quarlugs thành công, những người chỉ huy quân sự của Ả Rập đã
thúc dục những chiến thắng của
họ không tiến xa hơn về phía đông hoặc
phía bắc. Đây
là vì người Abbasids đang nhanh chóng mất thế
lèo lái của mình
đối với Tây Turkistan và
đông Iran khi những nhà lãnh đạo quân sự địa phương đang bắt đầu kế tục như các thống đốc của các khu vực này và
cai trị chúng như các tiểu bang tự trị Hồi giáo.
Khu vực đầu tiên tuyên bố quyền tự
chủ của nó là Bactria, nơi mà tướngTahir đã thành lập triều đại nhà Tahirid
(819-873). Khi người Abbasids rút lui từ Kabul và Gilgit, chuyển sự chú ý của họ đển những vấn đề cấp bách hơn, những người Tây
Tạng và Turki Shahis lấy lại quyền
kiểm soát trước đây của họ. Mặc dù
sự ép buộc cải đạo
của các nhà lãnh đạo đối với những vùng đất này, lực lượng Abbasids đã không đàn áp Phật giáo ở đây. Thực tế, người Ả
Rập duy trì thương mại với
những người Tây Tạng trong suốt thời gian này, sự nhập khẩu chủ yếu là xạ hương. Ngay cả tín hữu Hồi giáo và Phật tử đã thành lập sự liên kết văn hóa với nhau. Ví dụ, Fazl Ullah đã dịch những
tác phẩm cổ điển Ba Tư sang tiếng Tây Tạng trong thời gian này, như Gulistan và Bostan.
Phân
Tích về Chiến Dịch và
Chiến Thắng của Abbasid
Caliph al-Ma'mun đã tuyên bố chiến dịch của ông chống lại khối
liên minh Tây
Tạng-Turki Shahi-Qarluq-Oghuz bằng
cuộc thánh
chiến (jihad), một cuộc thánh chiến. Ông ta đã bảo vệ đối tượng Hồi
giáo của mình từ những kẻ mà ông ta cho là cuồng tín dị giáo, đang cản trở sự thực tập của đức tin tinh
khiết với các chiến dịch khủng bố và nổi loạn. Đó cũng là lý do tại sao khi ông
đã giành được chiến thắng, ông không chỉ
khăng khăng đòi Kabul Shah cải sang chính thống Hồi giáo, lại còn gửi lại bức tượng Đức Phật
được trình bày ở Kaaba như
là bằng chứng chiến thắng của Hồi giáo.
Gợi nhớ những gì đã
truyền cảm
hứng không do dự từ sự phá hủy Valabhi
của đế chế Abbasid, tuy
nhiên al-Ma'mun có thể xác định nhầm kẻ thù chinh phục của mình như là thành viên của các giáo phái Musalemiyya và Shia Manichaean. Cuộc
thánh chiến của
ông chống lại họ có
thể chỉ
đơn giản là một phần mở rộng của chiến dịch nội địa trước đây của cha mình. Nhưng, mặc dù các thành viên của liên
minh nước ngoài này ủng hộ các phiến quân Abu
Muslim, họ không
có nghĩa là theo đức tin đó
hoặc Manichaean Shia.
Nếu họ theo
như vậy, điều này trở nên không có ý nghĩa
mà
trong suốt thời gian này những người
Tây Tạng và Qarluqs cũng đang chiến đấu với người Duy Ngô Nhĩ, những
người vô địch thế giới
Sogdian Manichaean.
Người Tây Tạng đã chắc chắn không biết gì về chủ ý
của Hồi giáo của các cuộc nổi loạn Sogdian. Hơn nữa, giống nỗ
lực tương tự như nhà
ĐườngTrung Quốc sáu mươi năm trước,
Tây Tạng cố gắng để
gây mất ổn định sự cai trị của Abbasid tại Sogdia không phải là phần của một phương án để thu hút tín đồ Phật
giáo. Nó hoàn toàn là một động thái chính trị và kinh
tế để đạt được quyền
lực, lãnh thổ, và thuế từ các con đường tơ lụa thương
mại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo Tây Tạng vào
thời điểm bận rộn với sự ổn định Phật giáo trong
phạm vi biên giới của mình và
duy trì sự tự do từ việc kiểm soát lâu dài và
tham nhũng nội bộ. Mặc dù
các nhà lãnh đạo tham gia trong chính phủ, phạm
vi ảnh hưởng của họ không mở rộng đến các vấn đề quân sự. Mối quan tâm của họ đối với các vấn đề bên ngoài đã được tập trung hoàn toàn vào sự
liên hệ văn hóa với Pala Ấn Độ và nhà
Đường Trung Quốc cũng như tương lai của Phật giáo tại Tây Tạng.
Những người Abbasids
chắc chắn cũng không biết gì về tín ngưỡng của người Turki
Shahi và Tây Tạng. Những gì họ nhìn thấy chỉ đơn
giản là lực lượng nước ngoài hỗ trợ một giáo phái của phiến quân tôn giáo cuồng tín và không chỉ can thiệp vào
sự thực hành Hồi giáo
của tín đồ của họ, nhưng có lẽ quan trọng hơn, là đang cố gắng để lật đổ quyền
lực chính trị của họ. Thực tế, thánh chiến được nhắm vào người Turki Shahi và
nền chính trị Tây Tạng, không
phải Phật giáo của họ.
Al-Ma'mun thì không có ý khép
kín, cuồng tín
tôn giáo. Giống
như cha mình, Harun al-Rashid, ông
ta có sự phóng khoáng trong văn hóa và tiếp tục bảo trợ sự dịch thuật các tài
liệu Ấn Độ. Triều đại của ông không chỉ
nhìn thấy một tầm
cao mới trong thời khoa học
của người Abbasids, nhưng cũng phổ
biến thông tin tích cực về
nền văn minh
Ấn Độ tăng trưởng chưa từng thấy xuyên qua những người Ả Rập. Ví dụ, năm 815, cùng một năm
khi sự thất bại của vua Caliph về Shah Kabul, al-Jahiz (sinh 776)
đã công bố
tại Baghdad Fakir
as-Sudan ala l'Bidan (người Đen ưu việt hơn người trắng), điều này bao gồm sự ca ngợi những thành tựu văn hóa
lớn của Ấn Độ.
Có những cảm xúc tích cực về Ấn Độ, và giữa người Abbasids trong thời điểm này, và điều này chắc chắn đã mở rộng đến tất cả người Ấn Độ của tất cả các tôn
giáo, bao gồm cả Phật giáo.
Nếu cuộc thánh chiến của al-Ma'mun chống lại
chính Phật giáo, ông ta đã nhắm vào nó không chỉ đơn thuần là
liên minh Tây Tạng-Turki Shahi-Qarluq-Oghuz, nhưng tại
Tiểu lục địa Ấn Độ, nơi mà Phật giáo hưng phát và có sự thiết lập tốt hơn. Tuy nhiên, sau
khi chiến thắng ở Kabul, lực lượng của Caliph
tấn
công Gilgit và Ferghana,
không phải Oddiyana. Họ có những
mục tiêu khác trong dự
định.
Chúng ta hãy kiểm tra tình hình tại Tây
Tạng ngay trước những chiến thắng của al-Ma'mun ở Gandhara và Gilgit để đánh giá tình hình đầy đủ
hơn. Điều này cũng có thể giúp chúng ta hiểu lý do tại sao sự phục tùng của nhà
chỉ huy quân sự Shah Kabul và Tây Tạng hầu như không có bất kỳ
tác dụng đối với việc truyền bá Hồi giáo đến Tây Tạng hay các quốc gia chư hầu của nó.
No comments :
Post a Comment