Phần III: Sự Truyền Bá của Hồi Giáo Xuyên Qua Người Thổ Nhĩ Kỳ (840 - 1206 CE)
13. Sự Thành Lập Những Đế Chế Mới tại Trung Á
Sự Thành Lập Đế Chế Qarakhanid
Khi người
Thổ Nhĩ Kỳ Orkhon Uighur được điều
khiển từ Mông Cổ bởi sự tiếp quản của Kyrgyz vào năm 840 CE, họ bị mất sở hữu lãnh địa
thiêng liêng- ngọn núi vàng Otukan gần thủ đô
xưa của họ, Ordubaliq.
Theo tín
ngưỡng Manichaean
Tengrian và Phật giáo trước kia của người Turks, bất cứ ai
kiểm soát ngọn núi này là những nhà cai trị học thuyết của toàn bộ thế
giới Thổ Nhĩ Kỳ. Chỉ có ông
ta và con cháu ông ta mới có thẩm
quyền tinh thần để
chấp nhận danh
xưng qaghan, và
chỉ có
bộ lạc của ông ta
mới có thể cung cấp các nhà lãnh đạo chính trị cho các bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ khác. Các lực lượng tâm linh
(qut) đại diện
cho vận mạng của Thổ Nhĩ Kỳ như một toàn thể
cư trú trong ngọn núi này và sẽ hiện thân trong qaghan
như là lực lượng quan trọng của chính ông ta hoặc sức mạnh lôi cuốn
với việc chịu trách
nhiệm cho sự thành công hay thất bại của mình.
Các nhà lãnh đạo của hai vương quốc lớn được thiết lập bởi những người
tị nạn Duy Ngô
Nhĩ,
người Duy Ngô Nhĩ Qocho ở hướng bắc Tarim Basin và người Yugurs Vàng ở Gansu Corridor đã
không
hội đủ điều kiện cho danh xưng chính trị-tôn giáo này kể từ khi lãnh địa của họ đã
không mở rộng đến Mông Cổ. Từ khi người Kyrgyz thuộc về chủng tộc Mông Cổ
và đã
không
nói tiếng gốc
Thổ Nhĩ Kỳ,
họ cũng không làm nhà cai trị Hyrgyz của chính Mông Cổ. Họ là những người của vùng rừng Siberian, không phải của thảo nguyên,
và không tin vào
sự thiêng liêng của Otukan.
Tuy nhiên có một ngọn núi thiêng liêng thứ hai, Balasaghun, trên sông Chu
River ở miền bắc Kyrgyzstan gần Lake Issyk Kul.
Nó được dưới sự
kiểm soát của Western Turks, những người đã xây dựng nhiều tu viện Phật
giáo trên các sườn dốc của nó. Khi ngọn núi nằm trong
lãnh thổ Qarluq Turk, nhà cai trị Qarluq, Bilga
Kul Qadyr, vào năm 840 tuyên bố mình là "qaghan", nhà lãnh đạo
hợp pháp và bảo
vệ của tất cả các bộ lạc gốc Thổ Nhĩ Kỳ, và
đổi tên vương quốc và triều đại của ông
ta thành Qarakhanid (Karakhanid ).
Ngay sau khi thành lập,
Đế chế Qarakhanid chia làm hai. Chi nhánh phía tây
có thủ đô của nó
tại Taraz trên Talas River và bao gồm các thành phố
lớn của Kashgar với phía đông nam, xuyên qua dãy
núi Tianshan ngay cuối cực tây của lưu vựcTarim Basin. Việc phân chia phía đông, đến phía bắc qua dãy Kyrgyz Range được tập trung xung quanh ngọn núi linh thiêng
của Balasaghun trên
Chu River.
Sự Quan Hệ giữa Qarakhanids và Uighurs
Trong suốt giai đoạn của họ (840
- 1137), những đế chế Qarakhanids không bao giờ phát động một chiến dịch
quân sự chống lại những lãnh chúa cũ của mình-đế chế Duy Ngô Nhĩ (Uighurs), mặc dù trước đó, như Qarluqs, họ đã thường xuyên chiến đấu. Hai trong số bốn cộng đồng tị nạn Orkhon Uighur là rất nhỏ và đã định cư ở
trong đế chế Qarakhanid - tại Kashgar và dọc
theo thung lũng Chu River Valley. Không rõ vì lý
do gì họ trở nên
đồng hóa, hoặc nếu có thể họ duy trì
chính mình như là dân tộc thiểu số nước ngoài. Tuy nhiên, các đế chế Qarakhanids đã duy trì một sự cạnh tranh văn hóa với
hai dân tộc khác, nhiều nhóm lớn hơn, người Duy Ngô nhĩ Qocho và người Yugurs Vàng. Họ cố gắng dùng văn hóa khác, với mục đích
phi quân sự để đạt được uy thế cho mình.
Bộ lạc Duy Ngô Nhĩ Qocho đã trở thành đô thị hóa cao trong
các ốc đảo phía bắc của Tarim Basin. Từ bỏ những truyền thống quân sự ngày xưa với những thảo nguyên và tiếp nhận Phật giáo, họ sống chủ yếu trong hòa bình với
các vương quốc xung quanh. Bộ lạc Yugurs Vàng cũng trở thành đô thị hóa ở
các thành phố chính của Gansu
Corridor, họ cũng trở thành Phật tử, nhưng chiến tranh gần như liên tục với các
nước láng giềng của họ-Tanguts, với phía đông tiếp tục đe dọa họ. Các bộ lạc
Uighur có quan hệ thân thiện với Trung Quốc,
kể từ khi những người định cư bản địa Hán trong đây đã giúp họ
lật đổ những cựu lãnh đạo Tây Tạng của khu vực và thiết lập vương quốc của họ.
Quan Hệ Ban Đầu giữa Đế Chế
Qarakhanids và
Tây Tạng
Hai dân tộc Duy Ngô Nhĩ cùng nhau thành lập nhóm Thổ Nhĩ Kỳ duy nhất vào
thời điểm đó với một ngôn ngữ viết và một
nền văn hóa cao mà họ đã đạt được với sự giúp đỡ của các thương nhân Sogdian và các tu sĩ sống trong cả hai lãnh địa của họ. Người Qarakhanids thiếu những phẩm chất này, mặc dù sự kiểm soát của họ ở Kashgar, cũng
có một sự hiện diện Sogdian. Tuy nhiên, với chủ hữu vùng Balasaghun, họ đã có một sự tuyên khai mạnh mẽ cho sự lãnh đạo của của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Qarakhanids duy trì pháp tục ủng hộ sự pha trộn của Phật giáo, Thổ Nhĩ Kỳ Shaman giáo, và Tengrism giống như người Western Thổ Nhĩ Kỳ trước họ. Họ cũng tiếp tục quan hệ hữu nghị truyền thống với cựu đồng minh, quân sự lâu dài vớiTây Tạng. Sau này, mặc dù chính trị suy yếu, họ vẫn tạo nên một sự ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ vào các lãnh thổ trực tiếp ở hướng đông của Qarakhanids. Với hơn một thế kỷ sau vụ ám sát của Langdarma vào năm 842, Tây Tạng là ngôn ngữ quốc tế của thương mại và ngoại giao được sử dụng từ vùng Khotan đến Gansu. Do sự chiếm đóng dài hạn của Tây Tạng đối với khu vực, nó chỉ là ngôn ngữ địa phương thông thường. Nhiều kinh văn Phật giáo của người Hán và người Duy Ngô Nhĩ đã được chuyển thành chữ Tây Tạng để sử dụng rộng rãi nhất, một số tác phẩm thậm chí được tài trợ bởi hoàng gia Kyrgyz.
Qarakhanids duy trì pháp tục ủng hộ sự pha trộn của Phật giáo, Thổ Nhĩ Kỳ Shaman giáo, và Tengrism giống như người Western Thổ Nhĩ Kỳ trước họ. Họ cũng tiếp tục quan hệ hữu nghị truyền thống với cựu đồng minh, quân sự lâu dài vớiTây Tạng. Sau này, mặc dù chính trị suy yếu, họ vẫn tạo nên một sự ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ vào các lãnh thổ trực tiếp ở hướng đông của Qarakhanids. Với hơn một thế kỷ sau vụ ám sát của Langdarma vào năm 842, Tây Tạng là ngôn ngữ quốc tế của thương mại và ngoại giao được sử dụng từ vùng Khotan đến Gansu. Do sự chiếm đóng dài hạn của Tây Tạng đối với khu vực, nó chỉ là ngôn ngữ địa phương thông thường. Nhiều kinh văn Phật giáo của người Hán và người Duy Ngô Nhĩ đã được chuyển thành chữ Tây Tạng để sử dụng rộng rãi nhất, một số tác phẩm thậm chí được tài trợ bởi hoàng gia Kyrgyz.
Vương Quốc Saffarid
bằng sự biểu hiện liên
kết chặt chẽ hơn giữa Qarakhanids và Tây Tạng,
sau sự đàn áp của Langdarma đối với truyền thống tu viện Phật giáo,
ba nhà sư tại miền trung
Tây Tạng đã trốn thoát cuộc đàn áp bằng cách
đi băng qua phía tây Tây Tạng và chấp nhận tị nạn tạm thời trên
lãnh thổ Qarakhanid của Kashgar. Người Qarakhanids đã thông cảm với hoàn cảnh của họ, và Phật
giáo đã đủ ổn định trong khu vực
đó giúp họ cảm giác an toàn. Các nhà sư tiếp tục về phía đông, hầu hết dọc theo bờ rìa phía nam của vùng lòng chảo Tarim Basin, và hướng dẫn nhiều đồng bào của họ tại Gansu, cuối cùng họ định cư tại khu vực Kokonor thuộc đông bắc Tây Tạng, nơi mà vương quốc Tsongka Kingdom sớm được thành lập. Họ chịu trách nhiệm
cho sự sống còn của hệ thống truyền thừa của các tu sĩ và được hồi sinh ở
trung Tạng từ Tsongka một thế rưỡi sau đó.
Sau khi Tướng Tahir thành lập nhà nước Tahirid tại Bactria năm 819, tiếp theo nhà lãnh đạo Hồi giáo địa phương tuyên bố quyền tự trị dưới đế chế Abbasids là Yaqub bin al-Saffar, người thành lập triều đại Saffarid (861-910) từ thành trì của mình ở Sistan, đông nam Iran. Ông ta là một nhà thống lãnh quân sư cực kỳ tham vọng, trong năm 867 khởi hành chinh phục tất cả vùng Iran. Năm 870, lực lượng Saffarids của ông ta xâm chiếm Kabul. Đối mặt với sự thất bại kế tiếp, những nhà lãnh đạo cuối cùng của Phật giáo Shahi Turki đã bị lật đổ bởi giáo sĩ Bà La Môn của ông ta-Kallar, người đã từ bỏ Kabul với Saffarids và thành lập triều đại Hindu Shahi (870 - 1015) tại Gandhara và Oddiyana.
Sau khi Tướng Tahir thành lập nhà nước Tahirid tại Bactria năm 819, tiếp theo nhà lãnh đạo Hồi giáo địa phương tuyên bố quyền tự trị dưới đế chế Abbasids là Yaqub bin al-Saffar, người thành lập triều đại Saffarid (861-910) từ thành trì của mình ở Sistan, đông nam Iran. Ông ta là một nhà thống lãnh quân sư cực kỳ tham vọng, trong năm 867 khởi hành chinh phục tất cả vùng Iran. Năm 870, lực lượng Saffarids của ông ta xâm chiếm Kabul. Đối mặt với sự thất bại kế tiếp, những nhà lãnh đạo cuối cùng của Phật giáo Shahi Turki đã bị lật đổ bởi giáo sĩ Bà La Môn của ông ta-Kallar, người đã từ bỏ Kabul với Saffarids và thành lập triều đại Hindu Shahi (870 - 1015) tại Gandhara và Oddiyana.
Nhà lãnh đạo Saffarid
đánh cướp những tu viện của Kabul Valley và gửi những bức tượng Phật
từ những tu viện
này đến vua Abbasid caliph như là chiến lợi phẩm chiến tranh tại Baghdad. Sự chiếm đóng của
những chiến binh Hồi giáo này tại Kabul là đòn
khốc liệt đầu tiên chống lại Phật giáo tại đây. Sự thất bại trước đó và sự cải sang Hồi giáo của Kabul Shah vào năm 815 chỉ có tác động nhỏ trên tình trạng chung của Phật giáo
trong khu vực.
Lực lượng Saffarids tiếp tục chiến dịch chinh phục của họ và phá hủy vùng bắc, chiếm Bactria và đánh bật lực lượng Tahirids trong
năm 873. Tuy nhiên, vinh quang của họ thì thật ngắn ngủi. Năm 879, Binh
linh Shahis Hindu lấy lại quyền kiểm
soát của khu vực
Kabul. Họ bảo trợ
cả Ấn Độ giáo và Phật
giáo qua quần chúng của họ, và Phật giáo được hồi sinh bao trùm cả khu vực.
Các tu viện Phật giáo
tại Kabul nhanh chóng khôi phục lại sự sang trọng và vinh quang từ quá khứ của chúng. Asadi Tusi, trong tác phẩm Garshasp Name của ông ta viết vào năm 1048, mô
tả tu viện Subahar được tìm thấy bởi lực lượng Ghaznavids khi
họ chiếm Kabul từ Hindu Shahis khoảng năm mươi năm trước đó.
Nó là một trong những ngôi chùa có bức
tường đá cẩm thạch, cửa ra vào được mạ vàng, sàng nền bằng bạc, và
ở trung tâm của nó,
một vị Phật ở trên ngôi được làm bằng vàng. Bức tường của nó được trang trí
với các biểu tượng của các hành tinh và mười hai
cung hoàng đạo, giống hệt với chủ đề Zurvanite được tìm thấy trong phòng
ngai vàng của cung điện Iranian Sassanid –Taqdis trong nhiều thế kỷ trước đó.
Vương Quốc Samanid và Buyid
Trong khi đó,
các thống đốc Ba Tư của Bukhara và Samarkand cũng đã tuyên
bố quyền tự trị của họ từ
lực lượng Abbasids và đã sáng lập ra triều đại
Samanid (874-999). Năm 892, người sáng lập đế chế Samanid, Ismail bin Ahmad (r. 874-907)
chiếm thủ đô Western Qarakhanid, Taraz, khiến nhà cai trị của nó là
Oghulcahq dời thủ đô của mình đến Kashgar. Ismail bin Ahmad sau đó
đã chiếm Bactria từ
lực lượng Saffarids vào năm 903, khiến cho những
nhà cai trị khắc nghiệt Saffarid rút lui vào miền trung Iran.
Người Samanids đã nâng cao trở lại với truyền thống văn hóa của Iran, nhưng
duy trì sự trung thành chính trị với người Ả Rập. Họ là những người đầu tiên viết Tiếng Ba Tư trong văn bản Ả Rập và đã
làm phát triển văn học Ba Tư. Ở đỉnh
cao quyền lực
của họ, dưới thời Nasr II
(r. 913-942), nền hòa bình đã hưng thịnh tại Sogdia và Bactria, với
một mức độ cao của văn hóa.
Người Samanids thuộc giáo phái Sunni, nhưng Nasr II cũng có cảm tình với giáo phái Shiite và Ismaili.
Ông ta cũng hòa bình với Phật
giáo, thực tế được chứng minh rằng những hình ảnh Đức Phật được chạm khắc vẫn được thực hiện và
được bán tại thủ
đô Samanid của Bukhara trong thời gian này. Người Samanids lại còn cảm thông với nhiều sự bức hại đối với người Ma Ni giáo, và nhiều người lánh nạn được tìm thấy tại Samarkand trong thời gian cai trị của
họ.
Nhóm tôn giáo duy nhất cảm thấy không được hoan nghênh là Zoroastrians, những tín đồ của của người
sáng lập Samanid trước khi ông ta cải sang Hồi giáo. Một cộng đồng lớn của họ đã di cư đến Ấn Độ,
đến Gujarat bằng đường biển vào năm 936. Ở
đây, họ đã được biết đến như những tín đồ Parsis (tín đồ giáo phái thờ lửa). Ngay sau đó, người kế nhiệm của Nasr
II, Nuh ibn
Nasr (r. 943-954),
đã đàn áp khốc liệt giáo phái Ismaili của Hồi giáo.
Trong suốt thời gian này, lực lượng Abbasid caliphs ở Baghdad đã yếu hơn bao
giờ hết. Ngay sau khi sự sụp đổ của Saffarids vào năm 910, lực lượng Buyids đã thành lập triều đại cai trị của họ phần lớn
tại Iran (932-1062). Đế chế Buyids là tín hữu của Shiite, và trong suốt triều đại
của họ, họ kiểm soát Baghdad caliphs một cách có hiệu quả. Họ tiếp tục hỗ trợ sự quan tâm của Abbasid với sự nghiên cứu của nước ngoài, nhưng đặc biệt là khoa học. Năm 970, một nhóm học giả Baghdad được biết qua tác phẩm "Huynh
Đệ của Sự Tinh
Khiết (Ikhwanu's-Safa)" được xuất bản với bộ một bách khoa toàn thư năm mươi tập bao gồm tất cả
các lĩnh vực
của kiến thức đương đại, những nguồn tái liệu được dịch từ tiếng
Hy Lạp, Ba Tư, và Ấn Độ.
Đế Chế Khitan
Trong khi đó, một đế chế quan trọng khác
đang phát triển ở phía tây nam Mãn Châu đã nhanh chóng tác động cán cân quyền lực ở Trung Á. Đây là đế chế Khitans. Nhà lãnh đạo Apaochi (872-926) đã thống nhất các bộ lạc Khitan khác
nhau trong khu vực và tuyên bố
mình là "khan" vào năm 907, một năm sau sự sụp đổ
của triều đại nhà Đường Trung Quốc. Đế chế Khitans theo một sự pha trộn của
truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Hàn Quốc cùng với hình thức bản địa của
Shaman giáo. Apaochi đã xây dựng một ngôi chùa Phật giáo Khitan trong năm 902, và năm 917 tuyên
bố Phật giáo là quốc giáo.
Người Khitans
là nhóm được biết đầu tiên nói tiếng Mông Cổ. Họ đã có một nền văn minh phát triển cao với các kỹ năng đặc biệt trong kim
loại. Với mong muốn giữ một bản sắc riêng biệt cho dân tộc của mình, vào năm 920, Apaochi đã ra lệnh thành lập chữ viết cho ngôn ngữ Khitan, theo
mô hình mẫu tự của người Trung Quốc, nhưng phức tạp hơn nhiều. Trong những thế kỷ sau, nó trở
thành căn bản cho hệ thống chữ
viết của người Jurchen và
Tangut.
Năm 924, Apaochi
Khan lật đổ đế chế Kyrgyz và
chiếm Mông Cổ. Tuy nhiên, ông có đầu óc rất phóng khoáng, và dung nạp các tín hữu Kitô
giáo và Ma Ni giáo còn lại ở đây
sau khi người Duy Ngô Nhĩ Orkhon ra đi. Ông cũng mở
rộng quyền bá chủ của mình đến Gansu Corridor
và phía bắc
Tarim Basin, nơi
mà người Yugurs Vàng và người
Duy Ngô Nhĩ Qocho đã quy phục một cách hòa bình và trở thành những quốc gia chư hầu. Năm
925, ông ta đã tiếp nhận chữ
viết Uighur như chữ thứ hai, đơn giản hơn chữ viết Khitan. Thậm chí ông ta còn mời hai nhóm người Duy Ngô Nhĩ trở
về với những vùng đất thảo nguyên của họ. Tuy nhiên, Họ đã chấp nhận một đời sống ộn định ở đô thị và có lẽ cũng lo sợ người Khitan tiếp quản toàn
bộ con
đường Tơ Lụa trong sự vắng mặt của họ, cả người Duy Ngô Nhĩ và Yugurs đều từ chối.
Đế chế Khitan nhanh chóng mở rộng theo nhiều
hướng. Ngay sau đó, nó bao gồm tất cả vùng Mãn Châu, một
phần của phía Bắc
Hàn Quốc, và một vùng rộng lớn của vùng đông bắc và hướng bắc Trung Quốc. Những người kế thừa Apaochi đã tuyên lập triều
đại Liêu
(947-1125),
là một đối thủ và kẻ thù liên tục của triều đại Bắc Tống cTrung Quốc (Song Dynasty 960-1126). Người thừa kế sau đã thành công trong việc tái thống nhất lãnh thổ Trung Quốc sau nửa thế kỷ của sự phân
mảnh.
Mặc dù giới quý tộc Khitan chiếm đóng lãnh thổ Trung Quốc và hầu hết đã trở thành Trung Quốc hóa, những người Khitans bên ngoài Trung Quốc tiếp tục duy trì bản sắc văn hóa và phong tục riêng của họ. Các nhà lãnh đạo Khitan luôn luôn duy trì triều đình và trung tâm sức mạnh quân sự của mình ở tây nam Mãn Châu. Họ chỉ giao thoa đãi bôi bên ngoài đối với nghi lễ Nho giáo thay vì nhấn mạnh những phong tục mạnh mẽ của Phật giáo mà họ đã pha trộn với các niềm tin truyền thống Shaman giáo của họ. Dần dần, giá trị Phật giáo chiếm ưu thế. Việc cúng tế người tại lăng mộ hoàng đế Khitan được ghi nhận cuối cùng vào năm 983. Hoàng đế Khitan, Xingzang (Hsing-Tsang) sau khi đã quy y Phật giáo vào năm 1039 và ra lệnh cấm giết ngựa và bò tại tang lễ vào năm 1043.
Since the Khitans had been
familiar with Han Chinese Buddhism for centuries before declaring their dynasty
and also because the most extensive Buddhist literature was available in the
Chinese language, Han civilization soon overshadowed Uighur elements as the
main foreign influence on Khitan society. The Qocho Uighurs and Yellow Yugurs
felt increasingly estranged. Subsequently, while maintaining diplomatic and
trade relations with their overlords, the Khitans, they pursued a more
autonomous course. They never rebelled, however, perhaps for a number of
reasons. The Khitans had military superiority. Not only would the Uighur and
Yugurs be unable to vanquish them, they would, on the contrary, be able to
profit from having them as protectors. Furthermore, both Uighur groups, despite
having adopted Buddhism, undoubtedly still had their eyes on the sacred Otukan
Mountain in Mongolia, under Khitan control, and did not wish to lose all
contact with it. Uighur Buddhism, like its Old Turk predecessor and the
parallel Khitan form, combined Tengrian and shamanic elements into the faith.
Từ khi các đế chế Khitans đã quen
thuộc với Phật Giáo
Trung Hoa trong nhiều thế kỷ
trước khi tuyên lập triều đại của
họ và cũng bởi vì nền văn học Phật giáo rộng lớn nhất đã có sẵn
trong ngôn ngữ Trung
Quốc, nền văn minh của người Hán nhanh chóng làm lu mờ cá yếu tố văn hóa Duy Ngô
Nhĩ (Uighur) như ảnh hưởng chính của ngoại bang trên xã hội Khitan. Người Duy Ngô Nhĩ Qocho và Yugurs Vàng cảm thấy ngày
càng xa rời. Sau đó, trong khi vẫn duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại với lãnh chúa của họ-đế chế Khitans, họ đã theo đuổi một tiến trình tự
trị hơn. Tuy nhiên, Họ không bao giờ nổi loạn, có lẽ vì một số lý do. Lực lượng Khitans có
ưu thế quân sự. Người Duy Ngô Nhĩ và Yugurs
sẽ không có khả năng đánh bại họ, ngược lại họ có thể, và có được lợi ích từ việc có họ (các chư hầu) như là những người bảo vệ. Hơn nữa, cả hai nhóm người
Duy Ngô Nhĩ, mặc dù đã theo Phật giáo, chắc chắn vẫn còn để đôi mắt của họ trên ngọn núi thiêng Otukan ở Mông Cổ, dưới sự kiểm soát của Khitan, và không muốn mất tất cả
sự liên lạc với nó. Phật giáo Uighur, giống như những người tiền bối Old Turk với hình thức Khitan song song của nó, kết hợp những yếu tố Tengrian
và Shaman giáo thành tín ngưỡng.
No comments :
Post a Comment