
Phần III: Sự Truyền Bá của Hồi Giáo Xuyên Qua Các Bộ Tộc Thổ Nhĩ Kỳ (840 - 1206 CE)
15 Chiến Dịch Qarakhanid Chống Lại Khotan
Nhiệm Vụ của Người Khotan Đến Trung Quốc
Khotan, nằm về hướng đông của thành trì Qarakhanid tại Kashgar, là một quốc gia Phật giáo giàu có. Những vùng mỏ của nó là nguồn tài nguyên chính của ngọc bích cho tất cả các vùng đất dọc theo con đường Tơ Lụa, đặc biệt là Hán Trung Quốc. Đôi khi, các vị vua của nó thậm chí đã đến thămTrung Quốc, ví dụ trong năm 755 cung cấp sự viện trợ quân sự trong việc dẹp yên cuộc nổi loạn An Lộc Sơn. Tuy nhiên, kể từ khi chủ trương của Tây Tạng đối với việc cai trị của nó khắp vùng Khotan vào năm 790, tất cả sự quan hệ giữa cung đìện Khotan và Trung Quốc đã kết thúc. Người Khotan đã không tìm cách tái thiết lập sự liên hệ này ngay cả khi họ giành được độc lập vào năm 851. Tuyến đường thương mại xuyên qua bờ rìa phía nam của lưu vực Tarim Basin đã bị bỏ rơi gần một thế kỷ rưỡi, và các bộ lạc Tây Tạng định cư dọc theo nó thường đột kích Khotan.
Tuy
nhiên, năm
938, ngay sau sự chiếm đoạt ngai vàng
Qarakhanid của Satuq
Bughra Khan, vua Khotan đã gửi một đặc sứ triều cống và thương mại đến Trung Quốc thông qua tuyến đường miền Nam Tarim này. Mặc dù sự suy yếu của Trung Quốc trong tình trạng chia thành nhiều vương quốc
trong giai đoạn Ngũ Triều thịnh hành (907-960),,
Khotan cảm thấy nhu cầu cấp thiết để
tái thiết
lập lại quan hệ. Nhà vua này đã được thúc đẩy để thực hiện
bước này rõ ràng vì cảm giác bị đe dọa bởi tình trạng bất ổn
chính trị đối với phía tây ở Kashgar.
[View Map Twenty-six: Central Asia at the Time
of the Qarakhanid Invasion of Khotan, Approximately 1000 CE.]
Mặc dù Khotan đã không còn kinh
doanh trực tiếp với nhà Hán Trung Quốc trong một thế kỷ ruỡi trước, nó vẫn gia nhập vào một mức độ đáng
kể của các
hoạt động thương mại với các vùng khác. Tuy nhiên, tất cả các tuyến đường thương mại từ Khotan,
hoặc băng qua Kashgar
để đi vào Tây Turkistan hoặc phía bắc Tarim Basin, hoặc họ băng qua
Yarkand trên đường đến Kashgar để vượt qua dãy núi Karakorum Mountains đến Kashmir
và đi về những đồng bằng Ấn Độ. Nếu Kashgar và những vùng
bao quanh nó không ổn
định chính trị và không an toàn cho giao thông thương mại, nó sẽ khó khăn cho
Khotan tồn tại về mặt kinh tế. Điều này chắc chắn là một
trong những lý do chính đối với việc mở lại chi nhánh ban đầu của phía nam Tarim của con đường Tơ Lụa đếnTrung Quốc -- để thiết lập lại một thị trường giao thoa đối với ngọc bích Khotanese và hàng hoá khác.
Khi các đế chế Qarakhanids sau này theo đuổi
một chính sách bành trướng, người Khotan chắc chắn cũng cảm thấy khu vực bị đe dọa. Như vậy, thêm một lý do cho mối quan hệ với nhà Hán Trung
Quốc là niềm hy
vọng cho một liên minh quân sự
đổi mới khi hai nước đã thường xuyên được hưởng trong quá khứ.
Từ việc mở lại tuyến đường thương mại phía nam Tarim cho đến năm 971, người Khotan gởi nhiều đặc sứ đến cung điện Trung Quốc với những món quà ngọc bích và tìm kiếm
sự bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ của họ. Ngoài lợi ích thương
mại, điều này không thấy họ nhận được bất kỳ viện trợ quân nào từ các đồng
minh cũ của mình, ngay cả sau khi tái thống nhất Trung Quốc vào năm 960 với sự thành lập triều đại Bắc Tống.
Các lực lượng Bắc Tống bận rộn với chiến tranh gần như liên tục chống
lại các bộ lạc Tanguts (Tây Hạ) với phía tây trực tiếp của mình. Mặc dù du lịch từ Trung Quốc đến Trung Á có thể đi men theo cuộc xung đột bằng cách băng qua góc đông nam của Tsongka và tiếp tục về
phía Bắc đến Gansu Corrdor, lực lượng Bắc Tống thì quá yếu nhược để thuyên
chuyển sự chú tâm từ cuộc xung đột
Tangut và tác động can thiệp
quân sự trực tiếp ở Đông Turkistan. Người Khotan đã phải tự bảo vệ để chống lại bất kỳ cuộc xâm lược có thể mà không cần sự giúp đỡ của người Hán.
Vị Trí của Phật Giáo tại Khotan
Các đặc
sứ thương mãi và triều cống người Khotan đếnTrung Quốc chủ yếu là đi cùng với những tăng sĩ Phật giáo. Đây
là phong tục
thông dụng
ở các quốc gia Phật giáo, kể từ khi
các nhà sư
đa phần có học vấn cao nhất và là những thành phần học thức của xã hội. Các quốc gia mà họ thường đến
vì những mục đích ngoại giao.
Nhìn chung, hoạt động
Phật giáo rất mạnh
mẽ tại Khotan vào thời điểm này. Vua
Khotan, Visha Shura
(r. 967-977) đã tài trợ nhiều bản dịch
kinh văn Phật giáo từ tiếng Sanskrit sang ngôn ngữ của mình và gửi nhiều vị giáo
thọ Phật giáo đến
Qocho Uighurs. Mặc dù
người Khotan đã bắt đầu
dịch kinh điển Phật giáo sang ngôn ngữ của họ vào
giữa thế kỷ thứ sáu, cùng một thời điểm như người Tokharians đã bắt đầu làm như vậy, những
nỗ lực lớn nhất trong công trình phiên dịch này là vào giai đoạn này.
Tuyên Bố Một Cuộc Thánh Chiến
Theo tài liệu lịch sử Hồi giáo, người bản địa của Kashgar, chứ không phải là người gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã chống lại sự cải đạo tín ngưỡng ở những bàn tay của đế chế Qarakhanids. Họ đã được ủng hộ bởi các Phật tử của mình tại Khotan, người đã tạm thời giúp họ lật đổ sự cai trị của Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ năm 971 trong lúc các lực lượng Qarakhanid được tập trung trong một chiến dịch tại Sogdia chống lại lực lượng Samanids.
Bốn
vị imams (nhà lãnh đạo Hồi giáo) tiếp đó đã sai Yusuf Qadr
Khan, anh trai của Qaghan Qarakhanid lãnh đạo
một cuộc thánh
chiến để chiếm lại Kashgar.
Khan không chỉ có thành công, nhưng lấn chiếm thêm phía đông, đoạt thêm vùng Yarkand đến đế chế Qarakhanid
và cải người của nó sang Hồi giáo. Rồi ông ta bao vây Khotan
24 năm. Mặc dù
giúp đỡ người Khotanese tiếp nhận được nhà lãnh đạo
cũ của họ và
đồng bào Phật tử-những
người Tây Tạng, các thành phố lớn của Khotan đã bị mất vào năm
1006.
Ngay sau đó, người Khotanese tổ chức một
cuộc nổi dậy chống lại Hồi giáo và bốn imams đã tử đạo.
Tuy nhiên, Yusuf Qadr
Khan trở về từ trận
chiến với các lực
lượng Ghaznavid và dập tắt cuộc nổi loạn. Khotan sau
đó bị hấp thụ vào lãnh
địa Qarakhanid và tất cả bị cải đạo một lần nữa theo tín ngưỡng Hồi giáo.
Phân Tích về Cuộc Nổi Dậy Kashgari
Dữ
kiện này ngay lập tức đặt ra một câu hỏi quan trọng. Nếu Phật giáo bản địa của Kashgar
chống lại việc
cải
sang Hồi Giáo ngay trong tay các lực lượng Qarakhanids bởi họ không phải là người Thổ Nhĩ Kỳ, có nghĩa rằng lý do cho sự phản đối của họ
không phải
là vì Phật giáo của họ phải không, nhưng đúng hơn là nguồn gốc dân tộc của họ
như là người Iran? Dữ kiện này gián tiếp
cho thấy rằng Phật giáo Thổ Nhĩ Kỳ Qarakhanid của Kashgar đã không
chống lại sự cải đạo. Vì vậy, điều này dường như tôn giáo không phải
là vấn đề chính. Người Kashgaris bản địa đang cố gắng lật đổ sự cai trị Qarakhanid, không chỉ riêng
Hồi giáo
mới thuộc về
kẻ xâm lược ngoại bang của họ.
Thậm chí nếu chúng
ta chấp nhận rằng cuộc nổi dậy
Kashgari với một phạm
vi nhất định được thúc đẩy bởi tôn giáo và lòng trung thành với tôn giáo là một
yếu tố góp phần trong các chiến
dịch của lực lượng Khotan và Qarakhanid
tại Đông Turkistan, địa lý chính trị và kinh tế
chắc chắn cũng đóng
một vai trò quan trọng.
Một vấn đề quan trọng mà luôn luôn đè mạnh
trong các quyết định chính sách của hầu hết những nhà lãnh đạo Trung Á là mong muốn kiểm soát hoặc
ít nhất là có lợi nhuận từ con đường thương mại Tơ Lụa có lợi. Người Khotan chiến đấu với Kashgar và Qarakhanid đánh chiếm Khotan cũng phải được đánh giá trong bối
cảnh đó.
Đánh
Giá Việc Sử Dụng Kiểu Mẫu Thánh Chiến Để Mô Tả Hành Động Khotan tại
Kashgar
Lịch sử Hồi giáo sùng đạo mô tả
các biến cố như thể Khotan đã
dẫn đầu cuộc tương tợ
thánh chiến Phật giáo, cuộc thánh chiến chống lại Hồi giáo của Kashgar để bảo vệ sự tu tập ở đây trong niềm tin Phật giáo thanh tịnh. Lực lượng Qarakhanids đã đối mặt với sự đàn áp Phật giáo của Hồi giáo và đã bị đáp trả một cách chính đáng; tiếp đến với một cuộc thánh chiến của chính họ để chống lại người Khotan. Tuy nhiên, sự giải thích này không chỉ thống nhất một chiều trong đó nó
giảm bớt nhiều yếu tố thúc đẩy nào đó với các sự kiện khác hơn là tôn giáo, nhưng
cũng có vẻ với những suy tính thêm
thắt liên
quan đến một nền văn hóa Hồi giáo
đặt lên trênPhật giáo mà họ không nói đến.
[See: Holy Wars in Buddhism and Islam: The Myth of Shambhala - Full Version.]
[See: Holy Wars in Buddhism and Islam: The Myth of Shambhala - Full Version.]
Bản kinh Phật
giáo duy nhất nói về chiến tranh tôn giáo là kinh Kalachakra Tantra (Kinh Thời Luân). Trong tầm nhìn
thiên niên kỷ về tương lai, bản kinh này dự báo một
cuộc chiến khải huyền trong
thế kỷ 25 (CE) khi các lực lượng phi Ấn Độ sẽ cố gắng loại trừ tất
cả khả năng thực hành tâm
linh. Sự chiến thắng đối với tình trạng này sẽ mở ra một thời đại hoàng kim mới, đặc biệt là đối với Phật giáo. Mặc dù kinh văn này cũng được hiểu như là lời kêu gọi cho cuộc đấu tranh tinh thần
bên trong mỗi người để chống lại các lực lượng nội tại của bóng tối
và sự thiếu hiểu biết, nó đã không bao giờ được
thực hiện như là một khuyến cáo cho trận chiến bên
ngoài bất cứ
khi nào xã hội Phật
giáo đang bị đe dọa.
Dù là người ta giải thích kinh Kalachakra Tantra theo cách này: các lực lượng phi Ấn Độ, dẫn đầu bởi Mahdi, không ám chỉ
chung đến Hồi Giáo. Mặc dù sự mô tả của kinh văn về những tập quán của các lực lượng này cho biết có một sự liên hệ Hồi giáo, chẳng hạn như tập luật halal giết mổ gia súc, lễ cắt bao quy đầu, danh sách của các vị tiên tri của họ bao gồm tám giáo viên. Bảy
bao gồm danh sách tiêu chuẩn của Ismaili Shia giáo, và con số bổ sung là
Mani, có lẽ ám chỉ đến một hiệp hội với việc cải tín đồ
Ma Ni giáo và Ma Ni Shiite giáo sang Ismaili Shia giáo. Các giáo phái Shia, cũng như Sunni khẳng định
một danh sách của 25 vị tiên tri và danh
sách của họ không bao gồm Mahdi, mà danh sách của Ismaili thì có
Từ quan điểm nghiên cứu của phương Tây, các tài liệu tham khảo lịch sử và ít nhất một vài điểm khác trong kinh KalachakraTantra có thể
là tất cả được hình thành đầu tiên trong khu vực thủ đô Kabul của
phía đông Afghanistan và tại Oddiyana trong khoảng hậu bán của thế kỷ thứ mười. Cả hai khu vực, lần đầu
tiên, dưới sự cai trị của Ấn Độ Shahi giáo, và sau đó, vào năm 976, Kabul đã bị chiếm bởi lực lượng Ghaznavids. việc bao gồm các khu vực Kabul như nguồn tài liệu
kinh Kalachakra được gợi ý, bởi thực tế mà biểu tượng vũ trụ (mandala) đã mô tả trong kinh Kalachakra Tantra mô phỏng những họa tiết của đế quốc Sassanid được tìm thấy trên những tường vẽ của một trong những đền thờ của tu
viện Subahar được xây dựng lại tại Kabul sau năm 879 khi Hindu Shahi thất bại với lực lượng Saffarids. Tất cả ba có một vòng tròn đại
diện của các hành tinh và các dấu
hiệu của hoàng đạo được đặt xung quanh một nhân vật hoàng gia ở giữa, như trong cung điện Sassanid
tại Taqdis, vị “ Vua của không gian và thời gian (Zamin o Zaman).” Kalachakra” có nghĩa đen là " vòng tròn thời gian (thời luân)”,
với “vòng tròn (Circle)" cũng có thể giải thích là sự mở rộng của vũ trụ.
Năm 968, vương
quốc Ismaili của Multan (phía bắc Sindh) đã trở thành một nước chư hầu của đế chế Ismaili Fatimid (910 - 1171 CE), được thành lập ở Bắc Phi. Trong
năm 969, Fatimids chinh phục Ai
Cập, và với thủ đô mới của họ ở gần Cairo, họ nhanh chóng mở rộng đế chế của mình
tới miền tây Iran. Những Thiên sai Ismaili Fatimids
đã đe dọa một sự tiếp quản thế giới Hồi giáo trước lúc có khải huyền và tận thế trong những năm đầu thế kỷ thứ mười
hai, 500 năm sau nhà Tiên tri
(Prophet). Những người trong lĩnh vực chính trị Abbasid, bao gồm cả khu
vực Kabul theo đế chế Ghaznavids, lo sợ một cuộc xâm lược từ lực lượng Fatimids và các đồng minh của họ.
Đã bị dán nhãn như những là dị giáo và đe dọa đối với sự cai trị của Abbasid, tín đồ Ma Ni giáo, Ma Ni Shiite giáo, và người
cải sang Ma Ni giáo đã chạy trốn khỏi đế quốc Abbasid. Nó là hợp lý
để giả định rằng nhiều người tìm kiếm nơi tị nạn tại Multan. Từ khi việc cải sang Ismaili Shia phái cho phép sự kết hợp tôn giáo ban đầu, những người chuyển đổi này đã được phép ghi thêm Mani vào danh sách Ismaili giáo của Prophets. Như vậy, kinh Kalachakra cảnh báo về một cuộc xâm lược hầu hết có thể đã
được đề cập đến các giáo phái Ismailis của Multan, đã tạo ra tà
thuyết và thậm chí đe dọa bằng việc kết hợp các yếu tố Ma Ni giáo giữa các
niềm tin của họ. Các học giả Phật giáo Afghan chắc chắn đã gặp người
Manichaean Shìtes từ cung điện Abbasid trong
khi làm việc tại Baghdad vào
cuối thế kỷ thứ tám.Là một di sản của thời
gian đó, các Phật tử có thể đã nhầm lẫn
tất cả tín hữu Ismailis với người cải sang Manichaean Shiite giáo.
[See: The Kalachakra Presentation of the Prophets of the Non-Indic Invaders.]
[See: The Kalachakra Presentation of the Prophets of the Non-Indic Invaders.]
Trong bất kỳ trường hợp nào, Kinh Kalachakra Tantra mô tả những kẻ xâm lược là kẻ
thù của tất cả sự tu tập tâm linh. Điều này có thể bao gồm sự thực hành thuần túy không chỉ
Phật giáo và Ấn
Độ giáo, nhưng cũng có Hồi giáo, như kinh đã đề cập đến các tín đồ của tất cả các tôn giáo và đặt sang một bên sự khác biệt của họ để hình thành một mặt trận thống nhất nhằm chống lại mối đe dọa này. Dưới thời Hindu Shahis, Thung lũng Kabul
đã có một dân số
hỗn hợp của Phật giáo, Ấn giáo và cả người Hồi giáo Sunni và Shiite.
Dù người ta sử dụng kinh Kalachakra Tantra bằng việc kêu gọi cho cuộc chiến bên ngoài chống lại tất cả người Hồi giáo, không chỉ đơn giản là những yếu tố cuồng
nhiệt, nó cũng đã lỗi thời để khẳng định rằng người Khotan được truyền cảm hứng từ lời dạy của nó tuyên bố một cuộc thánh chiến của Phật giáo chống lại các đế chế Qarakhanids ở Kashgar. Các tài liệu tham khảo đầu tiên cho thấy sự hiện diện của giáo lý Kalachakra trên tiểu lục địa Ấn Độ nhắm đến Kashmir ở cuối thế kỷ thứ mười hoặc đầu thế kỷ thứ mười một. Một bài phê bình của học giả Ấn Độ giáo đối với hệ thống thiền định Kalachakra trong chương 16 của văn bản Kashmiri Shaivite tantra ( illuminating the Tantras
– skt. Tantraloka) được viết bởi Kashmiri Abhinavagupta. Theo một số học giả, Abhinavagupta đã viết đề tài của mình giữa năm 990 và 1014 và qua đời năm 1025. Tuy nhiên, không có
biểu thị rằng hệ thống Kalachakra đầy đủ, bao gồm cả giáo lý về một cuộc xâm lược, đã xảy ra tại Kashmir vào thời điểm đó, hoặc trước đó, năm 971 khi mà Khotan gửi lực lượng quân sự để hỗ trợ cuộc nổi dậy Kashgari. Dù khía cạnh này của giáo pháp Kalachakra đã hiện diện ở Kashmir tại thời điểm đó, không có dấu hiệu cho rằng kinh Kalachakra Tantra đã có ảnh hưởng đến Khotan, dù tình trạn địa lý gần
gũi của Kashmir và Khotan và sự trao đổi văn hóa và kinh tế đáng kể.
Vì vậy, khi Phật giáo không có bất kỳ phong tục hoặc truyền thống nào đó của các cuộc thánh chiến theo nghĩa Hồi giáo, nhiều khả năng là người Khotan đã sử dụng cuộc nổi dậy của Kashgari như là một dịp thuận tiện để khởi động một cuộc tấn công lật đổ đế chế Qarakhanids. Điều này là để bảo đảm một môi trường chính trị ổn định hơn cho kinh tế thương mại dọc theo khu vực phía tây của con đường Tơ Lụa. Kể từ khi người Khotan không có vấn đề với thị trường Hồi giáo đối với hàng hoá của họ ở Tây Turkistan, không thể rằng họ cảm thấy tôn giáo bị đe dọa bởi Satuq Bughra Khan tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo của Kashgar.
[See: Holy Wars in Buddhism and Islam: The Myth of Shambala - Full Version.]
[See: Holy Wars in Buddhism and Islam: The Myth of Shambala - Full Version.]
Sự Đánh
Giá về Hành Động Qarakhanid Như Là Một Cuộc Thánh Chiến.
Ở vị trí Qarakhanid, Bốn imams (nhà lãnh đạo Hồi giáo) chắc chắn là những nhân vật lịch sử - những ngôi mộ của các vị tử đạo đã được tôn kính tại Khotan thậm chí đến thế kỷ hai mươi. Hơn nữa, họ cũng có thể đã kêu gọi một cuộc thánh chiến, giải thích sự hỗ trợ của người Khotan về cuộc nổi dậy Kashgari bản xứ như là một cuộc chiến tranh Phật giáo thánh thiện. Tuy nhiên, không chắc rằng bốn giáo sĩ Hồi giáo có quyền lực với quân sự đầu tiên trên tẩm quyền của chính mình chỉ duy nhất dành cho nguyên nhân tôn giáo.
Qarakhanid qaghans và các tướng lãnh là những nhà lãnh đạo quân sự mạnh mẽ , và với một chương trình mạnh mẽ mở rộng đế chế của mình tại các nơi đắt đỏ của các quốc gia Hồi giáo và phi Hồi giáo, họ đích thân thiết kế và chỉ đạo chiến dịch của quân đội mình. Họ không khởi động một cuộc thánh chiến chống lại tất cả các nước Phật giáo láng giềng của mình, chẳng hạn đối với người Duy Ngô Nhĩ Qocho thuộc bộ tộc Khotan. Vì thế chúng ta hãy xem xét tình hình của các vương quốc lân cận để đánh giá những sự cân nhắc khu vực mà có thể đã hình thành các quyết định quân sự của Qaghan.
No comments :
Post a Comment