
Phần III: Sự Truyền Bá Hồi Giáo Xuyên Qua Các Bộ Lạc Thổ Nhĩ Kỳ (840 - 1206 CE)
18. Đế Chế Ghaznavids và Seljuqs
Chiến Dịch Ghaznavid tại Gandhara và Tây Bắc Ấn
Sau khi vua Mahmud của Ghazni đã bị đánh bại vào năm 1008 trong vụ tấn công của ông ta vào Đế chế Qarakhanid với phía bắc của mình, ông ta cọng tác với người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuq ở miền nam Sogdia và Khwarazm để bảo vệ vương quốc của ông ta từ sự trả thù Qarakhanid. Người Seljuqs là một bộ lạc là một nô lệ gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã được sử dụng như những lực lượng phòng thủ xuyên qua người Samanids và đã cải sang Hồi giáo vào năm 990 và sau đó. Để bảo vệ quê hương của mình, Mahmud lúc này chuyển sự chú ý của mình trở lại với tiểu lục địa Ấn Độ.
Nhiều thập
niên trước, năm 969, lực lượng Fatimids (910-1171) đã xâm chiếm Ai Cập
và đã khiến nó trở thành trung tâm của đế chế mở rộng nhanh chóng của họ. Họ tìm cách
đoàn kết toàn bộ thế giới Hồi giáo dưới ngọn cờ của giáo
phái Ismaili để
chuẩn bị cho sự ra đời của chúa cứu thế Hồi
giáo, một cuộc chiến
khải huyền, và sự kết thúc của thế giới, dự đoán cho
sự khởi đầu của thế kỷ thứ mười hai. Lãnh địa của họ mở rộng từ Bắc Phi tới phía tây Iran, bằng một quyền uy đại hải, họ đã gửi các nhà truyền giáo và các nhà ngoại giao ra các nước để mở rộng ảnh hưởng và tín ngưỡng của họ. Họ là những đối thủ chính của
đế chế Sunni Abbasids vì sự lãnh đạo của thế giới Hồi giáo.
Những dấu tích của sự cai trị của Hồi giáo ở Sindh sau khi xâm chiếm Umayyad là
vô cùng yếu kém. Những thống
soái Sunni đã đáp trả lòng
trung thành trên danh nghĩa đối với vua caliph Abbasid, trong
khi trên thực tế họ chia sẻ quyền lực với các nhà
lãnh đạo Ấn giáo địa phương.
Hồi giáo cùng tồn tại hòa bình với Phật giáo,
Ấn Độ giáo, và Jainism. Tuy nhiên, những nhà truyền giáo Ismaili đã nhận ra đối tượng tiếp
nhận không hài
lòng giữa người Sunni và người Ấn giáo với hiện trạng truyền giáo. Năm 959, nhà cai trị của Multan, miền Bắc Sindh cải sang giáo phái Ismaili Shia, và năm 968,
Multan tuyên bố mình là một nước chư hầu của Ismaili Fatimid, độc lập từ Abbasids. Lúc này, lực lượng Abbasids với sự tham gia của cácchư hầu Ghaznavid của họ, bị bao quanh ở
phía đông và phía tây bởi những đối thủ Fatimid của họ. Họ lo sợ một cuộc xâm lược hai mặt trận sắp xảy ra. Để tấn công các lực lượng Ghaznavids, người Ismailis của Multan chỉ cần băng qua lãnh thổ của những kẻ thù của Ghaznavid- người Hindu Shahis.
Mặc dù cha của ông ta đã ủng hộ giáo phái Shiite của Hồi giáo,
vua Mahmud của Ghazni đã theo đức tin của giáo phái Sunni, tín ngưỡng chủ yếu không chỉ dành cho các đế chế Abbasids, mà còn của các đế chế Qarakhanids và Samanids.
Ông ta nổi tiếng là người không dung nạp các
giáo phái khác của Hồi giáo. Sau khi lên ngôi vào năm 998 và
củng cố quyền lực
của mình tại Afghanistan, ông ta tấn công giáo
phái Shahis Ấn Độ giáo ở Gandhara và Oddiyana vào năm 1001 và
đánh bại kẻ thù của cha mình,
Jayapala, người mà ông cũng coi như là có khả năng đe dọa. Mặc dù Oddiyana
vẫn là một trung tâm chính của Mật tông Phật giáo với cả hai vị vua Indrabhuti và Padmasambhava
đã từng xiển
dương trước giai đoạn quyền lực của Hindu Shahi, nó không cò bất kỳ tu viện nào của Phật giáo hưng thịnh. Mặt khác, đền thờ đạo Hindu của nó đầy dẫy với sự giàu có. Do đó, Mahmud
cướp bóc và phá
hủy chúng.
Người kế vị Jayapala, Anandapala
(r. 1001-1011), bấy giờ thành lập một liên minh với Multan. Nhưng năm 1005,
Mahmud đánh bại lực
lượng chung của họ và thôn
tính Multan, do đó vô hiệu hóa mối đe dọa của Fatimid Ismaili đối với thế giới Sunni Abbasid từ phía đông. Mahmud gọi quân đội của
mình là những chiến binh “ Ghazi" vì đức tin, và gọi là chiến dịch của
mình là "jihad” ( thánh chiến) để bảo vệ sự tuân
thủ chính
thống Sunni nhằm chống lại dị giáo Ismaili Shia.
Mặc dù nhiệt huyết tôn giáo có thể
đã là một phần của động cơ của ông ta, phần lớn rõ ràng mong muốn của ông ta là thiết lập chính mình như là người bảo vệ của đế chế Abbasids giống như các nhà lãnh
đạo của thế giới
Hồi giáo. Đóng một vai trò như vậy sẽ hợp pháp hóa sự cai trị riêng của ông ta như một chư
hầu của Abbasid, và bổng lộc mà ông
ta đã cướp đoạt sẽ giúp đỡ chiến dịch tài chính chống Fatimid của Abbasids
ở nơi khác. Ví dụ, ngôi đền mặt trời Hindu cổ- Suraj Mandir tại Multan, nổi tiếng là ngôi đền giàu có
của tiểu lục địa Ấn Độ. Kho báu của nó chỉ
tăng lên sự thèm khát của Mahmud đối với tài sản giàu có, ra xa phía
đông.
Sau khi chiến dịch bất thành của Mahmud chống lại lực lượng Qarakhanids, ông ta quay
sang tiểu lục địa Ấn Độ, và năm 1008 đã đánh bại một liên minh giữa Anandapala
và nhà cai trị của Rajput mà ngày nay là Indian Punjab và Himachal
Pradesh. Ông ta tịch thu ngân khố lớn
của Hindu Shahi ở Nagarkot (Kangra ngày nay),
và trong những năm tiếp theo, ông ta cướp bóc và phá hủy
các đền thờ giàu có của đạo Hindu và những tu viện Phật giáo trong khu vực. Trong các tu viện Phật giáo bị ông ta phá hủy là những ngôi chùa ở Mathura, phía nam của Delhi ngày nay.
Năm 1010, Mahmud
dập tắt một cuộc nổi loạn tại Multan, năm 1015 hoặc
1021 (tùy thuộc vào tài liệu chấp nhận), ông ta theo đuổi nhà cầm quyền Hindu Shahi, Trilochanapala (r. 1011 - 1021),
người đang củng cố lực
lượng của ông ta tại pháo đài Lohara ở dưới chân núi phía tây hướng đến Kashmir. Tuy nhiên Mahmud không bao giờ có thể chiếm pháo đài, hoặc xâm nhập vào Kashmir. Không biết vai trò người sáng lập Hindu của triều đại Lohara đầu tiên của Kashmir (1003
- 1101) là Samgrama Raja (r. 1003 - 1028) hùng
mạnh như thế nào mà đánh bại được Mahmud. Theo các tài liệu Phật giáo truyền
thống, người cai trị Ghaznavid đã được dừng lại bằng những mật chú Phật giáo được đọc bởi ngài Prajnarakshita, một đệ tử của Naropa.
Do thiệt hại nặng nề mà lực lượng Mahmud gây ra cho các tu viện Phật giáo ở IndianPunjab và Himachal
Pradesh, nhiều Phật tử đã tìm cách xin tị nạn ở nơi khác. Tuy
nhiên, với sự tấn công của quân đội Ghaznavid hướng về Kashmir, hầu hết người tị nạn đã không cảm thấy an toàn khi chạy đến nơi này. Một
số lượng lớn tràn ngập như thế lẽ ra băng qua dãy Himalaya qua Kangra đến Ngari ở miền tây Tây Tạng vào năm 1020 và sau đó, nhà vua Tây Tạng đã thông qua một đạo luật hạn chế người
nước ngoài vào trú ngụ trong nước hơn ba năm.
Tóm lại, cuộc thánh chiến Ghaznavid trong tiểu lục địa Ấn Độ ban đầu là trực tiếp chống lại Ismailis, không phải là Phật giáo, Ấn giáo, Kỳ
Na Giáo. Tuy nhiên, một
khi Mahmud đã hoàn thành mục tiêu tôn giáo và
chính trị của mình, chiến thắng của ông
đã thúc giục ông ta chiếm thêm lãnh thổ và đặc biệt cướp bóc từ những ngôi đền Hindu giàu có và các tu viện Phật giáo tại đây. Như các chiến dịch Umayyad ba thế kỷ trước, các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ đã phá hủy đền thờ và tu viện Phật giáo, sau khi triệt để cướp bóc, như một phần của
cuộc chinh phục ban đầu trong phạm vi khu vực, nhưng không tìm cách áp
đặt Hồi giáo bằng tất cả các đối tượng mới của họ. Mahmud
là kẻ thực dụng và lợi dụng toán lính Hindu không cải cải đạo và ngay cả một tướng lãnh Hindu để chống lại người
Hồi giáo Shiite, những kẻ chống lại ông ta tại Buyid Iran.
Mục tiêu chính của ông ta vẫn Shiite
và Ismailis.
Thái
Độ của Ghaznavid đối với Phật Giáo Ngoài Khu Vực Ấn Độ
Al-Biruni, nhà sử học Ba Tư đã đi cùng với
cuộc xâm lược tiểu lục địa Ấn Độ của Mahmud, đã nói một cách thích thú đối với Phật giáo và viết rằng, người Ấn Độ cho rằng Đức Phật như là “Prophet” (nhà tiên tri).
Có lẽ điều này ngụ ý sự quen thuộc của ông ta với thuật ngữ burxan của người miền trung Ba
Tư, có nghĩa prophet, được
sử dụng đối
với “Phật" trong kinh điển Phật giáo Sogdian
và Uighur, và
trước đó là trong các văn bản của người Ma Ni giáo đề cập đến tất cả các tiên
tri. Tuy
nhiên, điều này cũng chỉ ra rằng, các
Phật tử đã được chấp nhận như là "người của
cuốn sách", và cùng với người
Ấn giáo và Kỳ Na Giáo, được ban cho ‘tình trạng
những đối tượng (của Hồi giáo) được bảo vệ’ sau
khi quân đội
Hồi giáo tàn phá các cơ sở ban đầu của họ.
Những bằng chứng khác để hỗ trợ kết
luận thứ hai này là đế chế Ghaznavids không
bức hại Phật giáo trong những năm kiểm soát trước
đó của họ tại Sogdia, Bactria, hoặc Kabul. Năm 982, những bức tranh tường vẫn còn được thấy tại tinh xá Nava
Vihara và những hình ảnh khổng lồ của Đức
Phật được khắc trên các vách đá
Bamiyan ở miền trung Afghanistan vẫn không bị hư hại. Al-Biruni
ghi chép rằng nhiều tu viện Phật giáo vẫn còn hoạt
động ở những biên giới phía nam của Sogdia vào thời giao điểm thiên
niên kỷ.
Giống như đế chế Samanids trước
họ, đế chế Ghaznavids thúc đẩy nền văn hóa Ba Tư.
Cả văn học Ba Tư
và Ả Rập, từ thế kỷ thứ chín đến thế kỷ 12,
rất nhiều
tài liệu tham khảo đến vẻ đẹp của các di tích Phật giáo,
những tài liệu này cho thấy rằng các tu viện Phật giáo và nhà thờ
Hồi giáo hoạt động một cách hòa
bình, bên cạnh nhau. Ví dụ,
Asadi Tusi mô tả
sự lộng lẫy của tu viện Phật
giáo là Subahar Monastery của Kabul trong
tác phẩm Garshasp Name của ông ta vào năm 1408. Thi ca Ba Tư thường dùng tỉ dụ ca ngợi các cung điện diễm lệ được cho là giống như vẻ đẹp của "Nawbahar" (Nava Vihara).
Những hình ảnh Đức Phật, đặc biệt là Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, được mô tả tại Nava Vihara và Bamiyan với hình tròn mặt trăng phía
sau đầu Phật. Điều này dẫn
đến việc mô tả vẻ đẹp tinh khiết
qua những bài thơ như tả một người nào đó có “khuôn mặt trăng tròn của một vị Phật." Vì vậy, trong
những bài thơ Ba Tư thế kỷ 11, chẳng hạn như bài thơ Varqe và Golshah của Ayyuqi, danh từ bot trong giai đoạn Pahlavi, bắt nguồn từ thuật ngữ purt của người Sogdian trước đó , được sử dụng với một ý nghĩa tích
cực để chỉ cho "Đức Phật", không phải với ý nghĩa
xúc phạm thứ hai
của nó như là "thần tượng". Điều này ngụ ý đối với lý tưởng của vẻ đẹp vô
tính, và được áp dụng như nhau cho cả nam giới và
nữ giới.
Không biết danh từ al-Budd trong tiếng Ả
Rập có
nguồn gốc từ Ba Tư hay được đặt ra ngay thời điểm Umayyad xâm chiếm Sindh. Ban đầu, triều đại Umayyads sử dụng thuật ngữ này cho cả
những hình ảnh Phật giáo và Hindu giáo, cũng như các đền thờ có hình ảnh này.Thỉnh thoảng, họ cũng sử dụng từ này cho bất kỳ ngôi đền phi Hồi giáo, bao gồm cả giáo phái Thờ Lửa, Kitô giáo, và
Do Thái. Tuy nhiên, sau đó nó cũng mang cả
hai nghĩa tích cực và tiêu cực, là "Phật" và "thần tượng".
Tất cả các tài liệu tham khảo cũng cho thấy rằng những tu viện Phật giáo và hình ảnh đã có mặt trong các lĩnh địa văn hóa
Iran ít nhất xuyên qua thời kỳ Mông Cổ vào đầu thế kỷ thứ
mười ba, hoặc
ở mức tối thiểu di sản Phật giáo mạnh mẽ đó vẫn còn được duy trì trong nhiều thế kỷ giữa những Phật tử cải sang Hồi giáo. Nếu đế chế Ghaznavids duy trì hòa bình với Phật giáo trong những vùng đất phi-Ấn Độ của mình và thậm chí bảo trợ tác phẩm văn
học ca ngợi nghệ thuật của nó,
nhưng hầu như không, sau đó, chính sách
dài hạn của họ
trên tiểu lục địa là một hành động cải đạo bằng thanh kiếm. Giống với các đế chế Umayyads, phương cách xâm chiếm của đế chế Ghaznavid không giống như cách thức cai trị.
Sự
Suy Tàn của Ghaznavids và Sự Nổi Dậy của Seljuqs
Mặc dù sự thành công quân sự của mình trên tiểu lục địa Ấn Độ, lực lượng Ghaznavids không có khả năng kiểm soát lực lượng Seljuqs dưới quyền mình, và năm 1040 sau đó Seljuqs nổi loạn. Seljuqs chiếm đến Khwarazm, Sogdia, và Bactria từ lực lượng Ghaznavids, và năm 1055 đã chinh phục Baghdad, chỗ ngồi của các vua caliph Abbasid.
Chính quyền Seljuqs là người theo giáo phái Sunni và là cương quyết chống giáo phái Shiite và Ismaili như Ghaznavids. Họ lo lắng trành giành sự ảnh hưởng và kiểm soát của các vua Caliphs đối với người Buyid Shiites tại Iran. Năm 1062, cuối cùng họ chinh phục được Vương quốc Buyid, và năm kế tiếp, công bố triều đại của mình. Các bộ phận cuối cùng của Đế chế Seljuk kéo dài cho đến khi qui phục Mông Cổ vào năm 1243.
Trước sự thất bại của họ đối với lực lượng Seljuks, lực lượng Ghaznavids rút về phía đông của dãy núi Hindu Kush Mountains, bị hạn chế với Ghazna, Kabul, và Punjab. Họ duy trì một lực lượng quân đội được gia nhập từ nhiều bộ lạc miền núi Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo trong lĩnh địa của họ, và dựa vào thuế thu thập từ những người giàu có phi-Hồi giáo của tiểu lục địa Ấn Độ để tài trợ cho nhà nước của họ. Chính sách của họ đối với Kashmir rõ ràng minh họa thái độ của họ đối với các tôn giáo khác
Tình
Hình Chính Trị và Tôn Giáo tại Kashmir
Từ năm 1028 cho đến cuối triều đại Lohara đầu tiên vào năm 1101, trong sự thịnh vượng kinh tế, Kashmir đã trải qua một sự suy giảm đều đặn. Do đó, các tu viện Phật giáo bị giới hạn đối với mặt hỗ trợ tài chính. Hơn nữa, con đường thuận tiện đến các trường đại học Phật giáo lớn của trung tâm bắc Ấn đã bị cắt ngang bởi lãnh thổ Ghaznavid, những tiêu chuẩn tại các tu viện Kashmiri dần dần bị suy giảm. Vị vua cuối cùng của triều đại này, Harsha (r. 1089 - 1101), đã thiết lập một sự đàn áp tôn giáo khác, lần này sang bằng cả những ngôi đền Hindu cũng như các tu viện Phật giáo.
Vào thời Lohara thứ hai (1101 - 1171), và đặc biệt là dưới thời trị vì của vua Jayasimha (r. 1128 - 1149), cả hai tôn giáo đã hồi phục một lần nữa với sự hỗ trợ của hoàng gia. Tuy nhiên, tình hình kinh tế của vương quốc như một toàn thể đã suy giảm hơn nữa, tiếp tục cho đến sự thừa kế tiếp theo của những nhà cai trị Ấn Độ giáo (1171-1320). Mặc dù các tu viện đã kiệt quệ, hoạt động Phật giáo vẫn phát triển cho đến thế kỷ 14, với các vị giáo thọ và những thông dịch viên viếng thăm Tây Tạng theo định kỳ. Tuy nhiên, dù sự suy yếu của Kashmir trong hơn ba thế kỷ, không phải là đế chế Ghaznavids hay những nhà kế thừa Hồi giáo của họ ở Ấn Độ tìm cách chinh phục nó cho đến năm 1337. Dấu hiệu này cho thấy các nhà lãnh đạo Hồi giáo đã quan tâm nhiều hơn trong việc thu đạt của cải giàu có hơn là việc cải đạo từ các tu viện Phật giáo. Nếu sau đó là tu viện nghèo, họ đã không đá động gì đến.
Sự Mở Rộng Seljuq và Chính Sách Tôn Giáo
Trong khi đó, lực lượng Seljuqs đã mở rộng đế chế của mình về phía tây, chinh phục đế chế Byzantines vào năm 1071. Quốc vương Seljuq, Malikshah (r. 1072 - 1092), đã áp đặt cương vị chúa tể của mình đối với đế chế Qarakhanids tại Ferghana, phía bắc Tây Turkistan, Kashgar, Khotan. Dưới sự ảnh hưởng của Nizamulmulk- vị công sứ của mình, Seljuqs xây dựng những trường Hồi giáo (madrasah) ở Baghdad và trên khắp Trung Á. Mặc dù trường madrasahs đã được mọc lên vào thế kỷ thứ 9 đông bắc Iran, chỉ hoàn toàn dành cho việc nghiên cứu thần học, những ngôi trường madrasahs mới này với mục đích cung cấp một bộ máy quan liêu dân sự cho Seljuqs mà được giáo dục tốt trong giáo lý Hồi giáo. Đế chế Seljuqs có một cách tiếp cận rất thực dụng tôn giáo của họ.
Khi đã mở rộng Anatolia đến vùng Thổ Nhĩ Kỳ, lực lượng Seljuqs cũng tiếp tục chiếm Palestine. Năm 1096, Byzantine chống lại Giáo hoàng Urban II, người đã tuyên bố cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên để thống nhất phương
Tây và phương Đông trong sự cai trị của đế quốc La Mã và
chiếm lại đất Thánh từ "những kẻ ngoại đạo". Tuy nhiên, Seljuqs không có ý định chống những tín hữu
chúa Giê-Xu. Ví dụ, họ đã không trừ tiệt Kitô giáo từ Trung
Á.
Đế chế Seljuks cũng không phải chỉ đặc biệt chống Phật giáo. Đìều mà họ làm là chỉ huy hoặc ủng hộ các chư hầu Qarakhanid
của họ trong một
cuộc thánh chiến chống lại lực lượng Tanguts, Duy Ngô Nhĩ Qocho, và Tây Tạng Ngari, và tất cả nhà nước này đều hùng mạnh về Phật giáo nhưng yếu kém quân sự. Ngược lại, trong thời
gian cai trị Baghdad, đế chế Seljuqs cho
phép al-Shahrastani
(1076 - 1153)
xuất bản tác phẩm Kitab al-Milal
wa Nihal của ông ta -- một quyển sách triết học bằng tiếng Ả Rập có
bao hàm một phần của giáo lý Phật
giáo, như al-Biruni, đề cập đến Đức Phật như một nhà Tiên Tri.
Mệnh Lệnh Ám Sát của Nizari
Những hình ảnh cực kỳ tiêu cực mà người châu Âu và Kitô hữu Byzantine đã có đối với đế chế Seljuqs và Hồi giáo nói chung là một phần do xác định sai lầm của họ về tất cả Hồi giáo với phái Nizari của Ismailis mà được biết với những đoàn quân viễn chinh như "Order of Assassins” (Mệnh Lệnh Ám Sát). Bắt đầu khoảng năm 1090, lực lượng Nizaris đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy của khủng bố khắp Iran, Iraq và Syria, với những thanh niên trong tình trạng bị chuốc say sưa được gửi đi để ám sát những nhà lãnh đạo quân sự và chính trị. Họ muốn chuẩn bị thế giới cho lãnh đạo Nizar của họ, để trở thành không chỉ là vua caliph và imam (lãnh tụ Hồi giáo), nhưng còn là Mahdi, vị tiên tri cuối cùng sẽ dẫn đầu thế giới Hồi giáo trong một cuộc chiến tranh thiên niên kỷ chống lại những thế lực tà ác.
Đến những thập niên tiếp theo, đế chế Seljuqs và Fatimids phát động những cuộc thánh chiến chống lại lực lượng Nizaris, tàn sát họ với số lượng lớn. Phong trào Nizari cuối cùng đã mất tất cả sự hỗ trợ của quần chúng. Những cuộc thánh chiến này cũng đã có một tác động tàn phá đối với Seljuqs và, vào năm 1118, Đế quốc Seljuq chia thành nhiều phần tự trị.
Trong khi đó, lực lượng Ghaznavids tiếp tục bị suy yếu quyền lực. Họ thiếu nhiều nguồn nhân lực để lãnh đạo ngay cả vương quốc thu nhỏ của mình. Đế chế Qarakhanids cũng suy giảm quyền lực. Do đó, Ghaznavids và Qarakhanids bị buộc phải trở thành những tiểu bang chi nhánh với lãnh thổ Seljuq tự trị ở Sogdia và đông bắc Iran.
No comments :
Post a Comment