
Trong cuốn Tăng Già Việt Nam (1) của Hòa Thượng
Thích Trí Quang, có một câu rất hay, rất cảm động mà mỗi khi đọc đến thì cảm
thấy lòng hưng phấn, chí nguyện được cất cao lên, không còn khiếp sợ hay nhàm
chán phải đối diện với đời sống vô thường hệ lụy:
“Đứng trên tất cả để sống vì tất cả.” (2)
Câu ấy được viết ra để nhắc nhở, khích lệ những người xuất
gia theo Phật—những người đã từ bỏ mọi thứ cặn bã vinh hoa, đỗ đạt, danh vọng, quyền
lợi, sắc dục, tiền tài và thành bại... nói chung là tất cả mọi thứ trói buộc tầm thường của
cuộc đời.
— Nhắc nhở rằng trách nhiệm cao cả và duy nhất của người
xuất gia là tự giác ngộ lấy mình để có thể đem lại trí tuệ giác ngộ cho kẻ khác,
tự giải thoát lấy mình để có thể cứu thoát kẻ khác.
— Khích lệ rằng lý tưởng xuất trần là con đường cao đẹp và
đúng đắn mà chỉ có những kẻ có tình thương yêu rộng lớn, tuệ căn sâu thẳm và ý
chí quyết liệt dũng mãnh mới chọn lựa và dấn mình vào.
Nhưng khi người xuất gia chọn lựa “đứng trên tất cả,” điều
đó chẳng có nghĩa là chọn một thứ vị trí không gian hay một thứ giai tầng xã hội
nào ở chóp đỉnh của những nấc thang giá trị cuộc đời, mà chính là đứng ra ngoài,
hay đúng hơn, vượt ra khỏi, vượt lên trên, tất cả những thế đứng, chỗ ngồi,
quyền hạn, lợi dưỡng, sắc dục, danh vị, phẩm trật, chức tước, cấp bằng... nói
chung là tất cả những gì mà người thế tục bình phàm cho là quí giá và lăng xăng
chạy đuổi theo bằng cả cuộc đời của họ.
CON ĐƯỜNG NGƯỢC DÒNG
Đó là nhìn một cách lạc quan theo danh nghĩa lý tưởng. Còn
trên thực tế sinh hoạt, nhất là sinh hoạt của thời đại ngày nay—cái thời đại mà
kinh Phật đã thấy trước và đã đặt tên trước là thời kỳ mạt pháp—thì cả lòng
người lẫn hoàn cảnh xã hội hầu như đều toa rập, đồng lõa với nhau để đẩy xô
những người xuất gia vào một nếp sống mới với những lề lối suy tư, quan niệm,
lời nói và hành xử, đi ngược lại với chí nguyện xuất trần ban đầu, để rồi chúng
ta đau lòng mục kích bao nhiêu là điều “nghịch thường” trong chốn thiền môn, cả
trong nước lẫn hải ngoại.
Cái lẽ nghịch thường ấy, nhìn theo con mắt thế tục, thì
chẳng có gì gọi là sai trái, lạ lùng cả và tất nhiên là người thế tục sẽ cho đó
là điều bình thường; nhưng áp dụng nó vào nẻo đạo thì cái nghịch thường này thực
khó mà chấp nhận. Hòn sỏi ném xuống nước thì chìm đến tận đáy, đó chuyện bình
thường; nhưng bong bóng bay mà cũng lặn xuống đáy nước thì không phải là bình
thường nữa. Cả người bán lẫn người mua bong bóng bay đều mong đợi sự bay lên của
những chiếc bong bóng. Giá trị của chiếc bong bóng bay là ở chỗ bay lên ấy. Khi
bong bóng xìu không bay nổi, chúng mất giá trị, chúng không bình thường, không
còn lý do nào để tồn tại.
Con đường xuất gia là con đường ngược dòng. Giới nhà thiền
gọi là nghịch lưu. Trong khi tất cả những người thế tục và cả
những người cư sĩ tại gia có hiểu và tu tập theo giáo lý Phật, đều chạy xuôi
theo dòng tục lụy, thì chỉ có họ, những người xuất gia, là bơi ngược dòng để tìm
về nguồn cội vô tận thênh thang.
Chọn lựa sự ngược dòng là chọn lựa đứng trên tất cả, vượt
lên tất cả những cặn bã phù phiếm của dòng đời. Thế thì, tại sao một người xuất
gia phải cúi đầu bằng lòng, hãnh diện, vui vẻ, ngưỡng mộ, khiếp phục, tận lực
gia công, bỏ hết thì giờ, cặm cụi cắm cúi, hăm hở chạy theo... những cái gọi là
sự thành công của đời sống thế tục? Tại sao bong bóng càng lúc càng xìu đi một
cách thảm hại để rồi cứ la đà trên mặt đất? Tại sao con thuyền ngược dòng lại
quay mũi mà xuôi theo sóng nước? hay là nó vẫn hướng mũi về phía đầu nguồn nhưng
lại đi tới về phía cuối nguồn bằng cái đuôi thuyền?
Khi người xuất gia chằm hăm bỏ hết thì giờ của mình để được
thành công với đời—bằng bất cứ phương cách nào—thì người ấy đã thất bại thấy rõ
trên đường đạo. Thất bại là vì đã chọn đứng giữa và đứng trong tất cả, thay vì
đứng trên tất cả.
PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
Người ta có nhiều lý do để biện minh cho thái độ chọn lựa
này. Chẳng hạn, vì hoàn cảnh xã hội, vì thời cuộc, vì nhân tâm thời nay đòi hỏi
người xuất gia phải như vậy. Hoặc nói theo ngôn ngữ nhà thiền thì, “phải biết
dùng phương tiện thiện xảo để độ sanh.” Vâng, phương tiện thiện xảo (3).
Bốn chữ ấy đối với những bậc thực sự giải thoát giác ngộ (hoặc thực sự qui hướng
bản tâm vào lý tưởng xuất trần độ sanh) thì là cái gì linh diệu, đẹp đẽ, như
những cánh tay đầy diệu dụng (mười tám tay của Bồ Tát Chuẩn Đề, ngàn tay của Bồ
Tát Quán Thế Âm...) như những chìa khóa vàng mở vào kho vô tận... nhưng đối với
kẻ tuy mang hình thức xuất gia mà tâm hãy còn bươn chải lặn hụp theo dòng thế
tục thì đó chỉ là thứ rào chắn bảo vệ và che đậy, biện minh và khỏa lấp tất cả
sự hèn kém tầm thường của chiếc bong bóng xì hơi mà thôi.
Chúng ta có nên đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp đã khiến một số
người xuất gia không còn ôm giữ chí nguyện xuất trần? Chúng ta có nên biện minh
rằng tất cả những gì người xuất gia làm hôm nay đều là mở rộng cánh cửa phương
tiện thiện xảo?
Thực ra, khi một người phát khởi tâm bồ đề (giác ngộ), luôn
hướng vọng đến đạo quả giải thoát và chí nguyện độ sanh, thì không có vấn đề
chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp nữa. Bỏ đi, hoặc lơ là với chí nguyện xuất
trần, là tự mình lăn vào thời kỳ mạt pháp; không những sống trong thời kỳ mạt
pháp mà còn sống trong tất cả những hoàn cảnh mạt pháp.
Còn nói rằng vì phương tiện độ sanh mà làm các việc thế tục
thì điều này chẳng lạ gì với tư tưởng dấn thân hành đạo của truyền thống Đại
thừa. Nhưng nếu tâm bồ đề không phát khởi, không giữ gìn, không phát triển,
không đẩy đến mức toàn vẹn, thì tất cả những phương tiện dù có mang lại một kết
quả tốt đẹp nào đó đối với đời thì cũng đều là sự manh động của tự ngã (4),
không dính nhập gì đến đạo quả giải thoát giác ngộ và hạnh nguyện lợi sanh cả.
Và những thứ phương tiện được thực hiện theo cách đó không thể nào gọi là phương
tiện thiện xảo. Chúng chỉ là phương tiện theo ý nghĩa thông tục nhất của thế
gian mà thôi. Mà phương tiện theo cách ấy thì ai lại chẳng làm được! Tất cả
những con người gian ác, bạo tàn, quỉ quyệt, hám lợi hám danh, tham quyền cố vị,
vị kỷ, hèn mọn, đê tiện, thấp kém, ngu dốt và cả những người trí thức... đều học
tập, thực hành và phát triển phương tiện riêng của họ. Nhưng không có thứ phương
tiện nào trong số đó được gọi là phương tiện thiện xảo, bởi vì chúng được
thiết lập không phải để nhắm vào mục đích giải thoát giác ngộ.
Tóm lại là không có lý do nào để có thể đổ lỗi cho thời kỳ
mạt pháp hay biện bạch cho sự phóng tâm chạy xuôi theo dòng đời. Hễ mục đích sai
lầm thì tất cả phương tiện đều sai lầm. Suy ra, khi người ta làm những phương
tiện sai lầm thì ắt phải biết là mục đích của họ đã sai lầm.
Nhưng phương tiện nào là phương tiện sai lầm? Nói vậy e có
phải là vội vàng, bao đồng lắm không? Chứ không phải người ta thường nói rằng:
Nghề nào cũng tốt! Miễn là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” (5) và miễn
sao nghề xấu mà lòng tốt thì được rồi. Vâng, quan niệm ấy có thể áp dụng được ở
thế tục hoặc một khía cạnh nào đó trong đạo. Nhưng cũng tương đối thôi. Vì nó
chỉ có tính cách luân lý, an ủi những thành phần bất tài, thấp kém không tìm
được những nghề nghiệp vững chắc và danh giá trong xã hội, cũng như để khích lệ
những người lăng xăng dao động nên chú tâm vào một việc. Còn trên thực tế xã hội
thì không ai khuyến khích nghề trộm cướp, nghề đồ tể, nghề ăn mày ăn xin... (bất
kể lòng dạ tốt hay xấu) mà chỉ khuyến khích các nghề bác sĩ, kỹ sư, thương
gia... (cũng bất kể lòng dạ tốt xấu). Chính vì vậy, chắc chắn là có những phương
tiện sai lầm trong xã hội đầy dẫy những con người với lòng dạ bất thiện. Chính
vì bất thiện ở tự tâm, họ không bao giờ có mục đích nào gọi là cao đẹp hay có
lợi ích cho kẻ khác. Nhưng họ lại là những người luôn lấy phương châm cứu
cánh biện minh cho phương tiện để tô vẽ cho những hành động vị kỷ của
mình.
Xét về mặt nhân quả thì phương tiện và cứu cánh phải tương
ứng thích hợp với nhau. Phương tiện xấu thì đưa đến cứu cánh xấu; ngược lại, cứu
cánh xấu cũng mở đường cho những phương tiện xấu. Không có thứ phương tiện tồi
tệ của một kẻ tồi tệ nào lại đưa đến một cứu cánh hoàn hảo. Nói như
Krishnamurti—một vị đạo sư giác ngộ vĩ đại nhất của thế kỷ 20 mà chưa bao giờ tự
nhận mình là đạo sư—thì “Tự do đầu tiên và cuối cùng” (6). Có thể tạm
hiểu ý chính của tựa đề này (và cũng là nội dung của toàn bộ cuốn sách) rằng,
cái nhân tự do giải thoát mới đưa đến cái quả tự do giải thoát. Đầu tiên
là nhân, Cuối cùng là quả. Khi thiết lập một thứ phương
tiện mà thiếu tính cách tự do, thì sẽ chẳng bao giờ có được cái cứu cánh tự do
cả. Cũng vậy, các phương tiện xuôi dòng của thế tục không thể nào dẫn đến cứu
cánh giải thoát giác ngộ.
(lược bớt một mục với nhiều đoạn)
KÍNH TÍN VÀ PHÂN BIỆT
Nhận biết được chân sư và tà sư cũng là thực hành trạch
pháp và cũng hàm nghĩa rằng có một thứ chìa khóa hay một mấu chốt nào đó để tìm
ra, để nhận dạng những vị thánh tăng (và dĩ nhiên là đã vô tình so sánh với phàm
tăng). Điểm này xem ra có vẻ là điều cấm kỵ trong giới tu tập Phật giáo. Nó cho
người ta cái cảm giác như là mình vô lễ vô phép, mất niềm tin đối với Tam
Bảo.
Thực ra, tìm thầy học đạo không nhất thiết phải tìm cho ra
một vị thánh tăng, mà chỉ cần tìm cho được một vị chân tăng. Vị chân tăng
này có thể là thánh hay phàm (8), nhưng họ có một điểm chung là hướng vọng đến
đạo quả bồ đề; mà hướng vọng đến đạo quả bồ đề thì chắc chắn là phải thực
hiện hạnh vô ngã trong từng ý nghĩ, lời nói, và hành động thường nhật của
họ.
Thông thường, với lòng kính tín sâu xa vào Tam Bảo qua hình
ảnh sáng ngời của đức Phật, qua sự vi diệu của giáo Pháp, và qua
những tấm gương cao đẹp của nhiều thế hệ chân Tăng, người ta có thói quen
là không dám đánh giá, lượng định, so sánh... phẩm giá và hành trạng của những
người xuất gia hiện tại, cứ một mực cho rằng, “vị nào cũng tốt,” hoặc “dù họ
không được hoàn hảo lắm thì cũng hơn mình,” hoặc “biết đâu họ là bồ tát hóa
thân...” Thái độ kính tín sâu xa ấy rất cần thiết cho người sơ cơ học đạo và
cũng rất cần thiết cho những người đang thực hành bồ tát đạo, học theo hạnh của
Bồ tát Thường Bất Khinh (9), luôn luôn quí trọng tôn sùng kẻ khác vì tin tưởng
Phật tính sẵn có nơi họ. Nhưng trong trường hợp một người tầm sư học đạo, tha
thiết tìm cầu đạo lý giác ngộ để vĩnh viễn giải thoát, thì vấn đề phân biệt chân
sư - tà sư, tất phải đặt ra. Cố nhiên là phải như vậy. Bởi vì không phân biệt
được sự sai khác giữa chân và tà sư thì có thể xảy ra trường hợp suốt đời tu
hành lao nhọc mà chẳng có kết quả gì đáng kể, hoặc đi theo tà ma ngoại đạo từ
lâu mà chẳng hay.
CHÂN SƯ VÀ TÀ SƯ
Chân sư và tà sư khác nhau chỗ nào?
(lược bớt một đoạn)
Thực hành giáo lý đạo Phật, tu sĩ Phật giáo không phải
chỉ là những người trau luyện đạo đức hay một thứ tư cách cao quí đức hạnh
làm người nào đó mà xã hội mong đợi. Con đường chính yếu của họ là thực hành các
phương pháp tinh diệu nhằm phá vỡ biên giới của tự ngã để thể nhập vào bản thể
vô tận sẵn có trong mỗi người, mỗi loài. Để thành tựu trọn vẹn mục tiêu này,
hành giả phải trải qua một tiến trình, hoặc nhanh hoặc chậm, gồm 53 giai đoạn từ
sơ cơ đến thượng trí (10). Những giai đoạn tu chứng này vượt ra khỏi thứ đạo đức
làm người của thế gian, bước vào thánh hạnh cao quý của hàng Bồ tát, Phật. Và
chính vì có khá nhiều giai đoạn và thứ bậc như thế, việc nhận dạng các vị chân
tu đắc đạo đang ở giai đoạn nào không phải là đơn giản, trừ phi chúng ta đắc đạo
như Phật.
Tuy nhiên, như đã nói ở trước, để tầm sư học đạo, chúng ta
cần thiết phải biết nhận dạng một vị chân sư để theo học, như cách người xưa
thường nói “chọn mặt gởi vàng.” Điều này nói ra có vẻ như một điều mai
mỉa bất kính làm đụng chạm một số đạo sư nào đó. Nhưng nếu thực sự có một sự
đụng chạm, hóa ra vị đạo sư ấy dễ bị dao động đến thế sao? hóa ra vị đạo sư ấy
hãy còn một cái ngã to lớn cứng rắn nào đó để cho sự lượng giá của học trò đụng
chạm đến sao? và nếu cứ tránh né đụng chạm những đạo sư, hóa ra lại đẩy những
thiệt thòi về phía những người học trò đang khao khát tìm cầu chân lý?
(lược bớt một câu) Nếu chọn lầm
sư phụ thì chẳng phải là tiền đồ tu tập của chúng ta sẽ mở vào một cõi u u minh
minh hay sao?
Cho nên, rất cần thiết phải biết chọn thầy bằng cách nhận
dạng dấu hiệu thực nghiệm toát ra từ nếp sinh hoạt của họ. Sự nhận dạng này
không có nghĩa là phải nhìn thấu từng quả vị tu chứng của họ hoặc đòi hỏi họ
phải chứng minh sở đắc. Chúng ta có một chìa khóa nhỏ để mở ra cái kho vô tận
xứng đáng cho mình qui phục, nương tựa. Và chìa khóa đó chính là điểm chung mà
hầu như các vị chân tăng đều có: tính cách vô ngã thể hiện trong nếp sinh
hoạt hàng ngày.
Chân sư và tà sư theo quan niệm Phật giáo khác nhau ở chỗ
đó. Họ có thể sử dụng những phương tiện giống nhau: tụng kinh, tọa thiền, giảng
dạy Phật Pháp, làm việc văn hóa, làm việc xã hội từ thiện... Nhưng mục đích hành
đạo của họ thì khác nhau: một bên thì có khuynh hướng dẹp trừ bản ngã để thể
nhập vào thể tánh vắng lặng vô biên; một bên thì nuôi lớn bản ngã, đắp cao thành
trì của ái dục và lợi danh tầm thường.
Cần nhấn mạnh một lần nữa nơi đây rằng, chúng ta chỉ chú
trọng đến chân và tà. Mà trong chân có thể vừa có thánh vừa
có phàm, trong khi trong tà—dù có là một đạo sư nổi tiếng cách mấy đi
nữa—chỉ hoàn toàn là phàm. Như vậy, nếu chúng ta thực sự muốn tìm cầu một bậc
thầy có khả năng hướng dẫn ta tiến đến giải thoát giác ngộ, nên lấy chân,
bỏ tà.
(lược bớt một đoạn)
Chân sư Phật giáo tạm thời phân chia thành hai bậc: thánh
tăng và phàm tăng.
Các chân thánh tăng thì miễn bàn, vì chắc chắn họ là
những bậc chân sư đáng qui phục, ai có phước duyên thì được tu tập dưới sự hướng
dẫn của họ. Giả như không gặp thánh tăng, chúng ta hãy còn may mắn là có những
chân phàm tăng để bái làm thầy. Những vị này tuy chưa chứng thánh nhưng
luôn có khuynh hướng truy cầu giải thoát giác ngộ, biết được con đường chân
chính để đi và hướng dẫn môn đệ cùng đi, nỗ lực tu tập những phương thức dẹp trừ
bản ngã và khát dục. Cả hai bậc chân sư trên đều rất xứng đáng cho chúng ta đảnh
lễ qui y.
Nhưng ở trên, vẫn chỉ là nói một cách khái quát. Chúng ta
cần đi vào chi tiết: làm thế nào để nhận ra một vị chân sư? Câu hỏi này
đưa chúng ta quay trở lại với tiền đề nêu ở trước: tính cách vô ngã thể
hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày của các vị chân sư.
VÔ NGÃ TRONG NẾP SINH HOẠT
Theo quan niệm Phật giáo, sở dĩ chúng sinh trôi lăn trong
biển khổ luân hồi là vì đã tự cho rằng mình thực sự có một thứ cá ngã độc lập.
Một vài tôn giáo tôn thờ thần quyền cũng đã xác nhận có một thứ bản ngã qua sự
tồn tại bất diệt của linh hồn; trong khi có tôn giáo chủ trương hy sinh bản ngã
bằng cách dâng hiến trọn vẹn thể xác và linh hồn cho thần linh để được đền bù
tưởng thưởng xứng đáng sau khi chết. Công nhận hay chối từ bản ngã theo các lối
trên, đều chứng minh có một cái ngã có thực tướng hay có thực tánh, thực sự tách
rời với vũ trụ và vạn hữu chung quanh. Và đây chính là cái mầm của phiền não,
trói buộc.
Tu tập theo Phật giáo là tiến trình của sự lột bỏ (nhanh
hay chậm, hoàn toàn hay từng phần) sự vận hành và tồn tục của cái ngã đó. Tất cả
các pháp môn tu tập từ cao đến thấp của Phật giáo đều qui hướng về tự tánh
Không, tức là phá bỏ mọi kiến chấp về ngã (cái ta), ngã sở (cái thuộc về ta),
pháp (một cái gì ở ngoài ta mà ta đang hướng đến hay chối bỏ, nghĩ rằng ta đạt
được nó hoặc ta đang vượt qua nó...). Trở về với tánh Không thì xóa sạch vết
tích của ngã và pháp—đó là con đường nhanh của bậc thượng căn thượng trí. Xóa
sạch vết tích của ngã và pháp thì trở về với tánh Không—đây là con đường chậm
của hàng trung căn hạ căn. Nhưng dù là thượng căn hay hạ trí, dù phương pháp tu
tập có khác nhau, họ vẫn có điểm chung là phá trừ kiến chấp về ngã.
Như vậy, nếu thực sự muốn tu tập để thoát ly sinh tử,
chúng ta phải sáng suốt tìm đến một vị chân tăng chứ không cần uổng phí thì
giờ và công phu tu tập của mình theo chân những vị thầy mà nếp sinh hoạt hàng
ngày của họ biểu lộ rõ ràng khuynh hướng bảo vệ và nuôi lớn tự ngã như các
trường hợp điển hình sau:
— khi một vị thầy tự xưng mình là bậc thầy vĩ đại hoặc là
bậc thầy cao tột không ai bằng (đại sư, vô thượng sư), hoặc vui thích đắm
mình trong những danh xưng, tước hiệu, phẩm hàm tôn quí do kẻ khác ban tặng...
vị thầy ấy đang ở trong cơn mê của lòng vị ngã, ái ngã, và đang ôm theo mình
niềm tăng thượng mạn, tích cực nối đuôi ma vương để trèo lên đỉnh thang hào
nhoáng không thực của danh vọng và quyền lợi thế gian;
— khi một vị thầy nói với bạn rằng chỉ có phương pháp của
ông (hay bà) là cao tột, vượt hẳn các phương pháp của các bậc thầy khác, thì vị
thầy này đang sống trong niềm tự hãnh của một bản ngã còn đầy căn khí kiêu kỳ,
ngạo mạn;
— khi một vị thầy phê phán và chỉ trích cá nhân những bậc
thầy khác, nêu những lỗi xấu của những bậc thầy khác để làm nổi bật phong cách
của mình, thì vị thầy này đang biểu lộ phần nào tâm lượng tị hiềm nhỏ mọn của
mình;
— khi một vị thầy, dù không lên tiếng chỉ trích kẻ khác,
cũng không tự mở lời khoa trương về phẩm cách của mình, nhưng hài lòng với sự
tâng bốc ca tụng của môn đệ và trong lòng tự nghĩ mình cao quí, lẳng lặng cười
mỉa mai kẻ khác, không chịu lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tự sửa mình mà
một mực cho rằng kẻ khác chỉ trích hay phê phán mình là vì họ thua sút và ganh
tị mình, thì vị thầy này cũng đang tự bồi đắp tường thành ngã chấp ngay ở nền
tảng thâm sâu của nó;
— khi một vị thầy thường tỏ vẻ bất bình, bẳn gắt, cau có,
lúc nào cũng muốn mọi người phải thuận theo ý mình chứ không chấp nhận luận điểm
trái ngược, chỉ đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối từ kẻ khác, thì vị thầy ấy đang
tiếp tục nuôi dưỡng mầm mống của tâm ái ngã;
— khi một vị thầy thường trau chuốt bề ngoài của mình bằng
hương hoa, bôi trát son phấn để tạo cái đẹp giả dối hoặc che giấu nhân dáng thực
của mình, hoặc dùng các thứ trang sức vàng bạc, y phục diêm dúa đắt tiền lộng
lẫy để chứng tỏ sự hào phóng giàu sang... có nghĩa là vị thầy đó chưa bao giờ
tìm thấy một thứ giá trị cao tột nào ở phần tâm linh và đang bị dẫn dắt bởi
những tiểu yêu tầm thường nhất của con ma dục vọng;
— khi một vị thầy ưa thích xuất hiện giữa đám đông quần
chúng để được ca tụng và đón nhận lòng ngưỡng mộ từ kẻ khác, tung tiền bạc và
lòng thương giả tạo để mua chuộc niềm tin của những kẻ nghèo kém vật chất và
tinh thần... vị thầy đó đã tự chứng tỏ có một sự rỗng tuếch bên trong của mình
và đang cố gắng khỏa lấp bằng ảo tưởng là có một thứ tự ngã cao quí được người
khác nhìn nhận;
— khi một vị thầy lộ vẻ hãnh diện khi được sự tưởng thưởng
từ các giới quyền lực thế gian, khiếp sợ và tỏ ý tuân phục các thứ cơ cấu chính
quyền để mưu cầu an nguy cho bản thân, hoặc cảm thấy mình được tăng giá trị khi
thân cận tiếp xúc với giới này, hoặc thâu góp tài sản dâng hiến của môn đệ để
biếu tặng giới này mà mưu cầu danh vọng... vị thầy đó rõ ràng hãy còn cái tâm vị
ngã, chưa thấy được giá trị cao tột của con đường xuất thế viễn ly, chưa tìm
được nơi nương tựa chân chính cho tâm linh mình và chưa tự làm ngọn đuốc soi
sáng cho đời mình;
— khi một vị thầy thường lấy bằng cấp, sách vở, kiến thức
thế gian và sự qui tụ đông đảo của giới trí thức học đường thế tục để làm thứ
bảo chứng giá trị cho việc tu tập tâm linh của mình, có nghĩa rằng vị thầy ấy
đang còn đứng ngoài vòng rào của trí tuệ siêu việt, chưa bao giờ nếm được chất
liệu giải thoát giác ngộ thực sự và có thể là chưa từng bao giờ có khuynh hướng
muốn vươn tới sự viễn ly triệt để;
— khi một vị thầy làm được điều gì cũng hay có khuynh hướng
tự kể lể, báo cáo, khoa trương, đưa hình ảnh và tên tuổi của mình ra trước công
chúng qua các phương tiện truyền thông hoặc khích lệ, vui vẻ, tán đồng sự tâng
bốc, khoa trương kể lể của môn đệ đối với việc làm của mình... vị thầy ấy hãy
còn mê muội đắm mình trong ảo giác của những vầng hào quang huyễn dối của dư
luận và danh vọng thế gian;
— khi một vị thầy sợ hãi dư luận quần chúng, sợ hãi sự mang
tiếng cho cá nhân mình, sợ hãi sự phiền hà rắc rối cho đời tư của mình mà ngoảnh
mặt với điều thiện nên làm, làm ngơ trước điều ác đang làm khổ những đồng loại
chung quanh mình, thì vị thầy ấy chưa có được tâm vô úy; chưa có được tâm vô úy
có nghĩa là vị thầy ấy hãy còn nuôi giữ một thứ bản ngã to lớn, co rút trong cái
vỏ của vị kỷ, cầu an; điều này cũng chứng tỏ vị ấy chưa có được sự mẫn tuệ của
kẻ thực hành bồ tát hạnh và cũng chưa phát triển đúng mức lòng từ bi của mình
đối với chúng sinh...
Vài nét đại cương ở trên dĩ nhiên không có giá trị tuyệt
đối nhưng ít nhất chúng cũng cho chúng ta khái niệm về những biểu hiện của cái
ngã—đối tượng để tu tập và chuyển hóa trong tất cả mọi pháp môn, mọi sinh
hoạt của Phật giáo.
Trình bày những biểu hiện của sự chấp ngã, người viết chỉ
hy vọng một điều duy nhất là những người môn đệ tìm cầu giải thoát giác ngộ có
thể chọn được một minh sư chân chính nào đó để hướng dẫn mình đi đúng đường; còn
những vị đang đóng vai trò hướng đạo thì cũng tự nhìn lại mình, lượng giá được
chân tướng của mình cũng như con đường mà mình đang đi.
(lược bớt một đoạn)
Để vĩnh viễn thoát ly sinh tử hay ít nhất cũng chọn được
chính đạo để xác định tiêu đích giải thoát của mình, người học trò phải tìm cho
kỳ được một vị chân sư (phàm hay thánh) đang ngày đêm nỗ lực hướng đến tiêu đích
giải thoát đó và đang sống giữa cuộc đời ô trược này mà không đắm nhiễm cuộc
đời. Tính cách bất nhiễm của vị chân sư đó được thể hiện trong tinh thần vô ngã.
Sự tu tập của người theo Phật giáo khác với tín đồ của các tôn giáo khác ở chỗ
đó.
(lược bớt một đoạn)
Việc hành đạo của người xuất gia chân chính thì vừa cứu độ chúng sinh, vừa cứu độ chính mình, ra khỏi
trùng vây của ngã chấp, thoát ly hoàn toàn cái vòng lẩn quẩn của tử
sinh.
Người xuất gia sở dĩ đứng trên tất cả là do đã sống vì tất
cả; sống vì tất cả là do không còn bám chặt vào gốc rễ của tự ngã. Tu tập, hành
đạo, làm việc thiện, mà cứ khư khư bám chặt lấy tự ngã thì suốt đời suốt kiếp
cũng chỉ là viên sỏi lặn xuống đáy nước. Trong khi đó, những ai đã phá trừ tất
cả mọi thứ gốc rễ, mọi thứ đeo bám, mọi thứ rườm rà nặng nhọc của hình thức và
tự tâm, thì có thể như cánh nhạn, như làn mây, như sợi khói mỏng, hay như chiếc
bong bóng, nhẹ nhàng bay lên bầu trời vô tận.
Thực ra, những vị chân tăng nói trên không phải là không
có. Có khi họ ẩn thân ở một nơi đèo heo hút gió, mà cũng có khi họ sống rất gần
gũi với chúng ta. Chỉ tại chúng ta thích chạy theo giá trị hời hợt của đám đông,
cứ tưởng rằng hễ là chân sư thì phải nổi tiếng hoặc kẻ nào nổi tiếng thì phải là
chân sư... nên không nhìn ra được những vị chân sư rất bình phàm, chơn chất,
giản dị, có khi chẳng có một mảy may tài năng, phép lạ, tiếng tăm, bằng cấp, hay
danh vọng gì cả... Không có thứ thước đo nào của thế gian này có thể lượng định
được chân giá trị của một bậc chân sư. Chỉ có chìa khóa duy nhất: tinh thần
vô ngã—mà Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước—là có thể mở ra cho người môn
đệ nguồn hứng cảm vô tận của giải thoát giác ngộ. Tinh thần ấy đã đào tạo nên
nhiều thế hệ chân tăng cho nhiều quốc gia, nhiều thời đại; cống hiến cho cuộc
đời những bậc thầy thong dong tự tại, đến và đi một cách lặng lẽ, không cột trói
mình vào bất cứ thứ hình thức rườm rà huyễn mộng nào của cuộc đời.
Riêng tôi, tôi luôn nhìn thấy họ quanh tôi, rất thân cận
với tôi. Thân cận nhưng họ lại ở trên tôi rất xa, bởi vì họ đứng trên tất cả mà
không bao giờ thấy mình đứng trên tất cả.
(trích từ tác phẩm Con Đường Ngược Dòng, xuất bản năm
1998)
(1) Xuất bản từ năm 1952 tại Việt Nam. Ở hải
ngoại, được tái bản năm 1986 bởi nhà xuất bản Phú Lâu Na, Hoa
Kỳ.
(2) Nguyên văn câu ấy là "Đứng trên tất cả để
sống vì hết thẩy." Xem Tăng Già Việt Nam, trang 16.
(3) Phương tiện (Sanskrit: Upàya) là một thuật
ngữ Phật giáo không phải chỉ có ý nghĩa như là một thứ khí cụ, dụng cụ tiện lợi
như cách người thế tục hiểu (chẳng hạn phương tiện chuyên chở, phương tiện đi
lại...); mà chính là chỉ những pháp môn, những phương thức độ sinh khéo léo và
tiện dụng (thiện xảo) của những hành giả dấn thân trên con đường Bồ-tát. Ngoài ý
nghĩa là phương pháp độ sinh tiện lợi và thích hợp trong một hoàn cảnh đặc biệt
nào đó, Upàya còn được dịch là quyền, có nghĩa là quyền biến, tạm thời
(như Quyền trí hay Phương tiện trí--[Sanskrit:
Upàyajnàna]: trí tuệ quyền biến, tạm thời thiết lập để cứu độ chúng sinh, dẫn
dắt họ đến Bát-nhã trí, Chân-thật trí).
(4) Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn nói:
"Vong thất bồ đề tâm
tu chư thiện pháp, danh vi ma nghiệp." Có nghĩa là thực
hành các điều lành mà quên mất tâm bồ đề thì các việc lành đó cũng chỉ là hành
động của ma (ma nghiệp).
(5) Một nghề mà chuyên thì vinh thân cả
đời.
(6) Tựa đề một tác phẩm của Krishnamurti
(1895-1986): "The
First and Last Freedom." Phạm Công Thiện dịch là "Tự do Đầu tiên và Cuối
cùng."
(7) Trạch pháp (Sanskrit: Dharma-pravicaya) là
chi hay phần đầu của Thất Bồ Đề Phần (còn gọi
là Thất Giác Chi), có nghĩa là khả năng phân biệt pháp đúng-sai, phải-trái,
chân-ngụy, chánh-tà... Thất Bồ Đề Phần là bảy đức tính phải có của bồ đề (bodhi
- giác ngộ) mà bất cứ hành giả nào cũng phải trải qua để tiến đến giác ngộ; gồm
có: 1) Trạch pháp, 2) Tinh tấn (Vìrya), 3) Hỷ (Prìti), 4) Khinh an (Prasrabdhi),
5) Niệm (Smrti), 6) Định (Samàdhi) và 7) Hành xả (Upeksà). Thất Bồ Đề Phần theo
thứ tự của số đếm (chứ không phải quan trọng hay thứ yếu) được xếp hàng thứ 6
trong 37 Phẩm Trợ Đạo (4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 bồ
đề phần và 8 chánh đạo).
(8) Theo một nghĩa khác, thực ra khi một vị
tăng tu hành chân chính (chân tăng) thì dù chưa chứng thánh quả, vẫn cứ là thánh
như thường.
(9) Vị Bồ-tát này thấy ai cũng lễ lạy, nói
rằng: "Tôi rất kính
quí các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật." Xem truyện tích này trong kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát thứ
20, bản dịch của Thích Trí Tịnh, Liên Hải Phật Học Đường xuất bản 1948, trang
489-499.
(10) 53 giai đoạn liệt kê vắn tắt như sau:
Thập Tín (10), Thập Trụ (10), Thập Hạnh (10), Thập Hồi Hướng (10), Thập Địa
(10), Đẳng Giác (1), Diệu Giác (1), và Phật (1). Về tiến trình tu tập gồm 53
giai đoạn này, xin đọc kỹ Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới thứ 39, bản dịch của Thích Trí
Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988, tập 7 từ trang 25- 681,
tập 8 từ trang 25-548. Hoặc tìm đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ
của Thiền sư Đơn Hà, bản dịch và giảng giải của Thích Đôn
Hậu và Thích Mật Nguyện, do Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới xuất
bản năm 1995 tại Hoa Kỳ, tập 2, Đoạn 6, An Lập Thánh Vị, từ trang 718-751. Ở
kinh này, tiến trình tu tập được chia làm 55 giai đoạn: Đẳng Giác, Diệu Giác và
Phật, tính làm một, là kết quả tối hậu, không liệt kê trong thứ bậc tu hành; các
quả vị khác cũng có Thập Tín (10), Thập Trụ (10), Thập Hạnh (10), Thập Hồi Hướng
(10), Thập Địa (10), cùng với Càn Huệ (1) là giai đoạn đầu trước khi bước vào
Thập Tín, và Tứ Gia Hạnh (4) là bốn giai đoạn giữa Thập Hồi Hướng và Thập
Địa.
No comments :
Post a Comment