
TN. Tịnh Quang chuyển ngữ
Khái niệm về Niết bàn
(Nirvana) đã
xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên
qua nhiều thế kỷ, biết bao học giả và triết gia đã cố gắng
để giải thích khái niệm này bằng cách sử dụng kiến thức giới
hạn của mình.
Thực tế, khái niệm về Niết Bàn vốn quá bao la và khó khăn để giải thích theo
chiều hướng trần tục. Khái niệm Niết Bàn thường
được hiểu lầm và đôi khi bị lạm dụng (ví dụ: - Nirvana
Rock Band, Nirvana Night Club) trong thế giới phương Tây. Một số học
giả phương Tây đã cố gắng để giải thích nó như là một trạng
thái xúc
động mạnh hoặc cực khoái, điều này hoàn toàn không chính xác.
Khái niệm về Niết Bàn vốn được giảng
giải bởi Đức Phật (566-486 BCE). Vào năm 35 tuổi, Đức Phật đã
đạt được đỉnh cao Trí Tuệ, giác ngộ bản chất sự
thật của
thực tại, đó là Niết bàn (Chân lý tuyệt đối).
Từ
Nirvana xuất phát từ nghĩa đen ‘thổi tắt’ và liên
quan đến việc thổi tắt ngọn lửa đang cháy của hận thù,
tham lam và mê
muội.
Khi những phiền não ô trược
của thân và tâm bị tàn phá bởi trí tuệ, tâm trở
nên tự do, sáng
chói, an vui, và cái chết không còn điều kiện để tái sinh. Niết bàn là hạnh phúc tối hậu.
Đức Phật
mô tả sự vĩnh cửu của Niết bàn như là một trạng thái "bất tử" với sự đạt ngộ tâm linh cao nhất, là phần thưởng cho một ai sống một cuộc đời đức hạnh. Niết bàn có ý
nghĩa cụ thể gắn liền với sự ngộ đạo, liễu đạt tâm với hiện tượng thực
nghiệm.
Niết
bàn chỉ có thể được giải thích với người chưa giác ngộ bằng sự phủ định. Vì vậy, Đức Phật cố gắng giải thích
khái niệm sâu sắc
này đối với một
trong những đệ tử
của ngài. Ngài hỏi rằng khi ngọn lửa được dập tắt, có thể cho
rằng nó đã đi về hướng bắc, hướng nam, hướng đông, hoặc hướng tây
không. Tuy nhiên, Niết Bàn không thể được mô tả như là
sự tồn tại (hữu),
không tồn tại (vô), hoặc
bao gồm có và không, hoặc không phải
có
cũng không phải không.
Hòa thượng Tiến sĩ
Walpola Rahula giải
thích khái niệm của Nirvana rằng:
“... Sự trả lời hợp lý duy nhất là không bao giờ có thể trả lời đầy đủ và thỏa đáng trong ngôn từ, bởi vì ngôn ngữ
con người quá nghèo nàn để lột tả được bản chất thực sự của chân
lý tuyệt đối hay thực tại tối hậu
là Niết Bàn. Ngôn ngữ được tạo ra và được sử
dụng bởi quần
thể loài người để diễn tả sự vật và ý tưởng
kinh nghiệm bằng các giác quan và lý trí của họ.
Thuyết Siêu nghiệm như
chân lý Tuyệt đối không phải thuộc
về phạm trù như thế. Ngôn
từ là biểu
tượng đại diện cho các sự vật và ý tưởng được biết đối với chúng ta; và các biểu tượng này không và
không thể truyền đạt được bản chất sự thật của những điều thậm chí bình thường. Ngôn ngữ được
coi là sự lừa dối và sai lạc trong các
vấn đề hiểu
biết về Chân lý. Vì vậy, kinh Lăng Già nói rằng
người vô minh bị kẹt vào
ngôn ngữ như một con voi bị
sa vào bùn. Tuy nhiên, chúng
ta không thể diễn
đạt mà không viện đến ngôn ngữ.
Cho rằng Niết bàn là kết quả tự nhiên của việc dập tắt ái dục thì
cũng chưa chính xác. Niết Bàn không phải là kết
quả của bất cứ điều
gì. Nếu nó
là một kết quả, thì
nó sẽ là một hiệu lực đuợc phát sinh bởi nguyên nhân. Nó có
tạo tác và có điều kiện. Niết bàn là không phải là nguyên nhân hay
kết quả. Nó
không phải được tạo
tác như trạng thái
thần bí,
tâm linh, và tinh thần như thiền hoặc định.
Người ta thường
hỏi: Có
điều gì theo sau Niết bàn? Câu hỏi này không
thể đưa ra, bởi vì Niết bàn là Chân lý Tối thượng. Nếu nó là Tối thượng thì có thể không có gì theo
sau nó. Nếu có
bất cứ điều gì theo sau Niết bàn, thì đó sẽ là
Chân lý Tối thượng và không phải
Niết bàn.
Người đã nhận ra Chân lý, Niết bàn, là người hạnh phúc nhất trên thế giới. Y giải thoát tất cả sự rắc rối và nhiễu loạn, những điều lo lắng và phiền não vốn làm người khác đau khổ. Sức khỏe tâm thần của y là hoàn hảo. Y không ăn năn quá khứ, cũng chẳng suy nghĩ đến tương lai.
Người đã nhận ra Chân lý, Niết bàn, là người hạnh phúc nhất trên thế giới. Y giải thoát tất cả sự rắc rối và nhiễu loạn, những điều lo lắng và phiền não vốn làm người khác đau khổ. Sức khỏe tâm thần của y là hoàn hảo. Y không ăn năn quá khứ, cũng chẳng suy nghĩ đến tương lai.
Y sống trọn vẹn trong hiện tại. Vì vậy y cảm nghiệm và hòa nhập vào những điều trong trạng thái thanh tịnh nhất mà không tự lự. Y vui vẻ, hoan hỉ, thưởng thức cuộc sống tinh khiết,
Y thể hiện sự hài lòng, thoát khỏi lo lắng, thanh thản và yên bình.
Vì y thoát khỏi được lòng ham muốn ích kỷ, thù hận, vô
minh, ngã mạn, tự hào, và tất cả sự nhiễm
ô như thế, y
thanh tịnh và nhẹ nhàng, có
tình thương rộng lớn, lòng
từ bi, lòng tốt, sự cảm
thông, hiểu biết
và khoan dung. Sự tận
tụy của y đối với người khác là
vô cầu, y không có
nghĩ đến bản thân. Y
đạt đến trạng thái không, vô
sở hữu, bởi
vì y thoát khỏi ảo tưởng về tự
ngã và sự ham muốn về việc trở thành.
Niết bàn và Tâm
Một con
người bao gồm sáu yếu
tố: chất
cứng, chất lỏng, độ
ấm, không khí, không gian và tâm
thức. Tất cả kiến thức
của con người
được thành lập trên các
tiền tố và năng lượng trong không gian và thời gian, được coi như sự tồn tại của bốn yếu
tố riêng biệt. Điều này
gây ra nhiều vấn đề cho nhân loại bởi vì sự
liên kết cần thiết
giữa những
điều này thì chưa được rõ. Hai yếu tố thân-tâm được gọi là vấn đề “vật lý
học tâm thần” và được tạo
thành công thức ngắn gọn bởi
nhà triết học và nhà toán học Pháp Rene Descartes trong
tác phẩm 'meditations’ của ông
ta, xuất bản năm 1641. Descartes cho rằng thế giới bao gồm hai yếu
tố khác nhau về cơ bản, tinh
thần và vật chất.
Vật chất chiếm cứ không gian 3-D, tâm thì không. Ông không thể giải
thích thỏa đáng sự
tương quan như thế nào đối với hai yếu tố này, tinh thần
và vật chất; Spinoza (1632-1677) đã nhìn thấy thân
và tâm là hai thuộc tính của cùng một sự vật, tiến trình của một và
tương đồng được biểu hiện theo hai cách khác nhau.
Sự tương kết giữa cơ thể con người và tư tưởng con người là gì? Tư
tưởng con người có thể đạt được chức năng
thần kinh cao hơn
xuyên qua quá trình tiến hóa? Lý thuyết của sự tiến hóa phải trình bày như thế
nào? Sự giải thích của Darwin được dựa trên tổng
số dữ liệu đặc biệt được thu thập
bởi kiến thức khoa học, được gắn chặt
với nhau bằng một số giả thuyết: Trái đất và cuộc sống phát
triển thông qua các quá trình vật lý,
hóa học, sinh học, qua hàng tỉ năm.
Con người
tiến hóa từ loài khỉ bằng
quá trình hoàn toàn vật lý của
‘sự
chọn lọc tự nhiên’, quy trình tương tự xuyên qua tất cả đời
sống được tiến hóa đó.
Vũ trụ
học khoa học là như vậy, một trong những phát triển và tiến bộ kế tiếp băng qua các thời kỳ rất dài của thời gian. Con người đã đạt được một sự thành công lớn hơn trong vấn đề này. Não
bộ của họ phát triển
thành một cấu
trúc cao
hơn. Tư
tưởng con người không có giới
hạn. Khoa học
đương đại đã không
phát hiện được thậm chí 5% của não
bộ loài
người và khả năng nhận
thức của nó.
Mỗi
ngày các nhà tâm lý học thần kinh
khám phá ra
phương thức mới, và những
chức năng não bộ tốt hơn. Họ có quan điểm rằng tâm trí của
con người là
một hệ thống khác thường cao
hơn hằng triệu lần so với các
máy tính mới nhất. Theo Phật giáo,
không có sự phân chia giữa các khía
cạnh thể chất và tâm lý của cuộc sống.
Sự kinh nghiệm của người này tác động đến
người khác.
Niết
Bàn là
được nhận thức bởi tâm. Nói
cách khác, tâm có thể được tôi luyện trong các chức năng nhận thức cao hơn. Khi tâm
đạt đến trạng thái cao hơn, nó có thể nhận
thức lý luận
hợp lý có tiến bộ, những phạm trù cao của đạo đức, và vv… Sự nhận thức về Niết
bàn là một hình thức của việc đạt được trạng
thái tinh thần cao hơn.
Nó là một trạng thái mà con
người kinh
nghiệm sự hợp nhất và toàn
thể của tất cả
mọi thứ như nó là. Sự hợp nhất và quan hệ liên kết của tất cả sự vật, từ quan điểm Phật
giáo, là sự thực khách quan.
Ý thức và Niết bàn
Trí óc, do đó, có thể
không được diễn
tả như là một
chuỗi các kết nối thần kinh, mà đúng hơn là một “hệ thống” làn sóng vật chất, sinh khởi trong những vùng đặc biệt rồi hoại diệt trong vùng khác. Những gì chúng ta gọi là ý thức
và ký ức có thể được hình thành
như là các cộng hưởng tập hợp và tiến trình của hệ thống thuộc
về não bộ.
Ý thức và nhận thức cũng có thể là một sự cộng hưởng của
hệ thống sóng não,
một
sự tác động của não bộ giao thoa với thế giới bên ngoài. Mức độ của ý thức mà người ta
có thể có là có thể phụ thuộc vào mức độ chọn
lọc của
bộ sóng não tương tác với môi trường. Não
bộ giao thoa và cộng hưởng với
môi trường thông qua
các giác quan nhiều
hơn, quan
trọng hơn có thể là mức độ của ý thức.
Đức Phật
dạy rằng ý thức nảy sinh bởi
do điều
kiện (duyên), nếu không có sự hiện diện của điều kiện thì không có ý thức. Ý thức phụ thuộc vào hình thái, cảm xúc, nhận thức và sự thúc đẩy để phát
sinh nó và không thể tồn tại
độc lập của bất
kỳ trạng huống nào. Đó là bản chất là một chức
năng quan sát.
Sự hòa hợp của vô thức và ý thức
Một cá thể
hóa là một người mà vô thức và ý thức được hài hòa, và bản
ngã (cái tôi) đã bị phân hóa. Điều này đạt được bằng sự
liên đới với vô thức, không bị cái tôi áp đảo nó. Tự
ngã có một giá trị đặc
trưng.
Những chức năng tồn tại dưới
ngưỡng cửa ý thức cần phải được đưa ra ở trên ngưỡng đó, các nội ảnh bị đàn áp cần được nhìn nhận, với các mô
thức chính mà tiềm thức dung chứa.
Theo Phật giáo, tâm lý con người có chín lãnh vực của ý thức tồn tại. Năm lĩnh vực đầu tiên tương ứng với năm giác quan và được gọi là: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, và thân thức. Bốn lĩnh vực còn lại thuộc về ý thức.
Theo Phật giáo, tâm lý con người có chín lãnh vực của ý thức tồn tại. Năm lĩnh vực đầu tiên tương ứng với năm giác quan và được gọi là: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, và thân thức. Bốn lĩnh vực còn lại thuộc về ý thức.
Lĩnh vực thứ sáu của ý thức kiểm
soát nhận thức về thế giới ngoại
tại và vật chất. Lĩnh
vực thứ bảy liên quan đến thế giới nội tại và tinh thần của chúng ta, và
điều động khả năng của chúng ta về suy nghĩ và phán đoán
(Mat na-Ýcăn).
Lĩnh vực thứ tám là "kho hàng" nghiệp (Karma/alaya). Lĩnh vực thứ chín là cơ
sở của tất cả tâm linh và được gọi là
Bạch
tịnh thức (Amala), có nghĩa là tinh khiết và không bị ô nhiễm.
Kết quả
giác ngộ từ trạng thái tâm thức đã được thanh lọc thông qua sự
thực hành lâu dài và có kỷ luật, thực hành thiền
định. Niết
bàn - mục
tiêu cuối cùng của Phật giáo
là một trạng thái trong đó không có đau khổ hay tham muốn, và không có tri
giác của cái tôi.
Nó là một
trạng thái hạnh
phúc hoàn hảo. Một
cách học thuyết, Niết bàn được cho là tâm “không còn đến và đi nhưng đã đạt được một trạng thái vĩnh cửu,” theo đó, sự tự do cũng có thể được nói là tâm giải thoát như Niết Bàn trong học
thuyết Phật
giáo. Ở nơi khác, Đức Phật gọi là Niết Bàn là cảnh
giới Bất sinh.
Vượt
Xa học thuyết của Freud
Về cơ bản
Freud giải thích về
bệnh lý. Lý thuyết phân tâm học được dựa trên các quá trình tâm lý
của
ý thức và vô thức.
Freud đã phát
triển một lý thuyết đối
với hành vi và tâm lý, sự thúc đẩy
hoặc chiều hướng của
tư duy.
Động lực
vô thức là ý tưởng then chốt của phân tâm học. Trong khái
niệm duy trì siêu tâm lý của phân tâm học giống như Niết Bàn vốn khó khăn để giải thích. Lý
thuyết siêu ngã (đọc phân tâm học với Bằng chứng lâm sàng của Tiến sĩ Ruwan M.
Jayatunge - Sarvodaya
Vishva Lekha nhà
xuất bản Colombo, Sri Lanka
2004) đưa
ra một số ý tưởng cơ bản về các chức năng của Siêu
ngã và bản ngã siêu cực ở những người đã phát triển
tinh thần. Những người
có tinh thần phát triển cao có mức độ giảm thiểu những chức năng kích thích
thì những xu hướng tinh thần của họ là nổi bật.
Thuyết Hiện sinh và khái niệm Niết bàn
So sánh
giữa Phật giáo và các trường phái
khác nhau của chủ nghĩa hiện
sinh đã để lộ một số tương ứng. Những sự nghiên cứu đã thường xuyên tập trung vào cách
tiếp cận siêu hình của mỗi
truyền thống và
thực tế cho thấy rằng tất cả chúng
xuất hiện để chia sẻ một số
hình thức của phương pháp hiện tượng học.
Tâm lý hiện
sinh phối hợp với các vấn đề cơ bản của sự tồn tại
có thể là nguồn gốc của cuộc xung đột hiện tại
trong mỗi người. Sự
quan tâm này là phổ quát và cố hữu trong điều kiện con
người; cái chết, tự do, sự cô đơn và vô nghĩa tính. Tính
‘không’ là điều kiện của con người mà cả Phật giáo và Nietzsche
đều
hưởng ứng.
Từ Dukkaha cung cấp
một ý nghĩa triết học sâu sắc của đau khổ và tính không. Dukkha là tiếng Phạn thường được dịch
là "đau khổ". Tuy
nhiên, loại quan trọng nhất của
Dukkha là Sankhàra-dukkha (hành khổ), một tình trạng hiện sinh không
đầy đủ do thiếu hiểu biết tâm
linh.
Tâm lý hiện sinh đề cập đến ý nghĩa của cuộc sống và sự tự do của con người. Đức Phật sử dụng Niết bàn như là một hình ảnh của tự do. Niết bàn định rõ sự siêu nghiệm và sự tự do bất tư nghì và có giá trị như là mục đích cuối cùng của tất cả giáo lý Đức Phật. "Đây là sự bình an, đây là sự thanh tịnh - chấm dứt đối với tất cả các vọng tưởng, từ bỏ tất cả lòng tham lam, kết thúc của lòng mong cầu; định tĩnh; tịch diệt; Niết Bàn".
Tâm lý hiện sinh đề cập đến ý nghĩa của cuộc sống và sự tự do của con người. Đức Phật sử dụng Niết bàn như là một hình ảnh của tự do. Niết bàn định rõ sự siêu nghiệm và sự tự do bất tư nghì và có giá trị như là mục đích cuối cùng của tất cả giáo lý Đức Phật. "Đây là sự bình an, đây là sự thanh tịnh - chấm dứt đối với tất cả các vọng tưởng, từ bỏ tất cả lòng tham lam, kết thúc của lòng mong cầu; định tĩnh; tịch diệt; Niết Bàn".
Tâm lý học Gestalt và khái niệm về Niết
Bàn
Từ Gestalt có nghĩa là một thể thống nhất hoặc có ý nghĩa, đó là trọng
tâm của sự nghiên cứu tâm lý thay thế. Tâm lý học
Gestalt dựa trên sự quan sát mà chúng ta thường kinh
nghiệm sự vật mà không phải là một phần của cảm giác đơn thuần của chúng ta.
Trong nhận thức, có nhiều
nguyên tắc cấu
thiết được gọi là định
luật Gestalt. Người ta không thể nhìn thấy thực tại đa chiều bởi vì các giác quan
của con người bị giới hạn trong ba chiều, nhưng vũ
trụ thuộc chiều cao hơn chỉ là một bộ phận của hệ thống đa
chiều.
Một quan
hệ tập hợp của các nguyên tắc toàn
diện được phát triển. Thế giới
đa chiều sau đó
được khám phá với hệ thống logic toàn diện này. Điều này dẫn đến những
lý giải thông thường của những hiệu ứng vật
lý lượng tử và cung cấp
câu trả lời chính đáng cho nhiều câu hỏi chưa được giải quyết,
chẳng hạn như toàn thể so với vấn đề
thành phần, sự tương tác thân
- tâm, cấu
trúc bên trong của tâm lý con người, sự khởi đầu của cuộc sống, và bản chất sáng tạo của sự tiến hóa .
Những
thí nghiệm của vật lý lượng tử chỉ
ra rằng các nguyên tử, được coi như
các khối xây dựng cơ bản của vũ trụ với cốt lõi bên
trong của chúng là
bản chất không . Vật lý
lượng tử do đó đã mang lại
một sự hiểu biết mới cấp tiến của các hạt
tiền tố và không. Trong vật lý hạ
nguyên tử, khối lượng thì không còn được coi là một chất
vật chất
cụ thể, nhưng
được thừa nhận là một dạng năng lượng.
Trong Kinh Pháp Cú, khái niệm
về Niết Bàn được giải thích như vậy: "Có cõi giới mà nơi đó không đất, không nước, không lửa, không gió; không phải cõi giới của vô tận không gian, cũng không phải cõi
giới của vô tận ý thức, cũng không phải cõi
giới của
hư vô, cũng không phải cõi
giới của phân biệt hay
vô phân biệt, không có thế giới này, và cũng không có thế giới tiếp theo, không
có mặt trời, hay mặt trăng. Và ở đây, ta nói, không đến, không
đi, cũng không dừng lại, không sanh
không diệt, không lập, không
thành, không trụ (đối tượng tâm lý). Điều này,
chỉ như vậy, là sự kết thúc của
phiền não.”
Các nhà tâm lý học Gestalt tin
vào trực giác hoặc kinh nghiệm Aha
(Aha: khả năng mà trực giác thâu vào và phát ra-theo
Gestalt). Điều
này có thể được giải thích như là một cái
nhìn sâu sắc hoặc đúng
hơn nhận thức bất chợt của mối quan hệ quan
trọng. Ý thức về Niết bàn đôi khi đạt được
như kinh nghiệm Aha.
Nâng cao khả năng nhận thức có thể nắm bắt và hiểu biết một vài câu hỏi phức tạp trong vòng một vài giây.
kết luận
Một
khía cạnh quan trọng của Niết bàn nói chung là nó không phải là một điều gì đó bắt nguồn từ sự liên hệ của các nguyên nhân, hình thành sự tồn tại như là một kết quả
của một hành động tạo ra hoặc một sự kết tụ của các yếu tố làm nhân, nó không bao giờ được tạo ra, nó luôn luôn đã
là, đang là,
và sẽ là. Tuy nhiên, do
bóng tối đạo đức
và tinh thần của chúng sinh
bị màn vô minh che lấp, nó vẫn còn
ẩn tàng từ nhận thức chưa
được đánh thức.
No comments :
Post a Comment