
Một ngày cuối thu, mấy huynh đệ đồng liêu chúng tôi
cùng tổ chức một chuyến du lịch đến thành phố Quảng Châu - miền nam Trung quốc.
Sau mấy ngày ngao du thưởng lãm nhiều danh thắng
trong thành phố, chúng tôi mới tới chùa Nam Hoa nằm bên bờ Tào Khê để chiêm bái
đảnh lễ nhục thân Lục Tổ. Trong đoàn có sư cô Tâm Hiếu là du học sinh hiện đang
tu nghiệp tại Phúc Kiến. Sư cô tình nguyện theo làm hướng dẫn viên kiêm thông
dịch cho đoàn trong suốt cả lộ trình.
Vì mỗi ngày chỉ có hai chuyến xe lửa từ Quảng Châu đi
Tào Khê, và do không nắm bắt được giờ giấc, nên chúng tôi phải ra ga từ sáng sớm
ngồi chờ cho đến hơn chín giờ tàu mới chuyển bánh. Và khi đoàn lữ hành tu sĩ
chúng tôi đến nơi thì trời đã quá trưa. Vừa đặt chân vào cổng chùa Nam Hoa, một
sư cô trong đoàn đã xúc động thốt lên:
- Được đảnh lễ nhục thân Lục Tổ là mãn nguyện lắm
rồi.
Với địa thế lưng dựa núi, mặt nhìn sông, chùa Nam Hoa
từ thuở xa xưa đã nổi tiếng là nơi phong thủy hài hòa, cảnh quan kỳ vĩ. Ngày
trước chẳng hiểu Tổ có xem qua thuật phong thủy không, chứ núi non này, cảnh trí
này cùng với tâm ý lòng người thuần thục thì dù ngài ở đâu, pháp đạo cũng xương
minh, người người theo về tu học. Chùa Nam Hoa hiện là Phật Học Đường lớn của
vùng Lãnh Nam, Tăng chúng trên hai trăm vị. Hai chữ Tào Khê gợi lên một khung
cảnh thiền đậm màu sắc phương nam mà người học Phật khắp nơi đều mong muốn tìm
về chiêm bái. Là Thánh địa nên mỗi cảnh vật nơi đây đều toát lên vẻ thiền vị siêu thoát. Khi dạo quanh những con đường
nhỏ nằm giữa đám cỏ xanh rì rậm rạp, tôi có cảm giác là đang đi vào khu rừng có
dòng suối mát trong lành, là nơi mà ngày trước Tổ thường ra giặt y. Một khu rừng
với những tảng đá rêu mờ, là nơi mà nhiều bậc thiền giả thích ra tĩnh tọa tham
thiền. Chưa vào đến điện Lục Tổ mà đã nghe lòng lâng lâng niềm cảm xúc.
“Tào Khê là tên một dòng sông ở Đông Nam huyện
Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, nơi có ngôi chùa cổ Bảo Lâm, còn gọi là
Nam Hoa, từng là đạo tràng lớn của Đại sư Huệ Năng (638-713), vị Tổ thứ 6 của
Thiền tông Trung Quốc. Tào Khê là thắng cảnh gắn liền với danh lam, là một thiền
cảnh… nói đến Tào Khê là nói đến cảnh Phật, pháp Phật, với sứ mạng cứu người độ
đời…”
Khi đắc pháp và nhận lãnh y bát từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
Lục Tổ Huệ Năng vẫn còn mang hình thức cư sĩ và ngài trở lại quê nhà ẩn tu, chờ
đợi thời cơ. Xuất gia tại chùa Quang Hiếu, nhưng chùa Nam Hoa là nơi Tổ lưu trú
hoằng pháp lâu nhất - ba mươi bảy năm. Với ngần ấy thời gian, Tổ khai mở pháp
thiền đốn ngộ, tiếp chúng độ Tăng. Kể từ đó miền Tào Khê trở thành Thánh địa và chùa
Nam Hoa được coi là Tổ đình của Thiền phái Nam Tông. Vậy thì ai bảo miền
đất phương nam không có những bậc thượng căn thượng trí. Học chúng nương về
đông, người liễu ngộ cũng nhiều, nên y bát không còn là vật biểu trưng truyền
thừa. Mạch nguồn Tào Khê từ dạo ấy đã không ngừng tuôn chảy.
“Một dòng Tào Khê
chảy về phía đông lan
tỏa ngàn núi trăm sông
nơi đâu cũng là Phật pháp”
Chùa có nhiều di tích phải lo bảo tồn tu bổ, nhiều
công trình mới cần giữ gìn tôn tạo. Và cũng như những ngôi chùa nổi tiếng trên
đất nước Trung Hoa rộng lớn này, chùa Nam Hoa bán vé cho khách vào tham quan
chiêm bái. Chúng tôi vốn là con nhà Phật từ phương xa đến nên khỏi phải mất tiền
vào cổng. Qua khỏi chiếc cổng tam quan bề thế là cả một khuôn viên rộng lớn với
nhiều cây cao bóng mát cùng vô số tháp đá tượng đá được tạo dáng rất ấn tượng.
Trong lúc mọi người ngồi quanh chiếc bàn đá dùng cơm thì sư cô Tâm Hiếu đến liên
hệ với thầy tri khách xin chỗ nghỉ lại qua đêm. Sư cô còn cho biết, nếu muốn
chúng ta có thể xuống nhà trù xin một bữa cơm chay. Nhưng đoàn chúng tôi vốn
biết lo xa nên đã cụ bị cơm nước thức ăn đủ dùng cho cả ngày hành hương về thăm
đất Tổ.
Bước qua chiếc cầu đá xinh xắn, mọi
người hứng thú thả tầm mắt ngắm nhìn đàn cá bơi lội tung tăng cùng những chú rùa
nhởn nhơ qua lại phía dưới ao phóng sanh. Thú vị nhất là chiêm ngưỡng y bát của
Tổ được người đời sau tạo ra với kích thước to lớn đặt giữa sân có khung kiếng
bao quanh. Đi lần vào bên trong là Đại Hùng bảo điện
còn gọi là điện Tam Bảo
thờ ba vị gồm Phật Thích Ca, Di Đà và
Dược Sư. Sau điện Tam Bảo là Tàng kinh các. Hai bên tường có vô số các bức tượng
La Hán với phong cách tạo hình độc đáo. Chúng tôi chỉ có một buổi chiều nên
không thể tham quan hết các nơi. Theo giờ giấc quy định, quá năm giờ chiều tất
cả điện thờ đều đóng cửa nên lạy Phật xong chúng tôi đi liền ra phía sau, nơi
khoảng sân rộng có ngôi tháp cao. Đó là tháp Linh Chiếu. Nghe nói tháp Linh
Chiếu và điện Lục Tổ đều do ngài Hư Vân Hòa thượng trùng tu.
Cuối cùng chúng tôi cũng vào tới điện Lục tổ. Nhục
thân Lục Tổ với y áo trang nghiêm trong thế ngồi tĩnh tọa, hai bên tôn trí nhục
thân của hai vị Đại sư là Hám Sơn và Đan Điền. Mọi người đứng lặng chiêm ngưỡng
nhục thân Tổ trong giây lát rồi quỳ xuống sụp lạy. Hơn ngàn năm qua, biết bao
người con Phật đã quỳ lạy dưới chân Tổ và chắc cũng mang nhiều tâm trạng bồi hồi
xúc động. Được diện kiến nhục thân Lục Tổ, mà không được nghe pháp ngữ của ngài,
lòng người trở về cứ man mác nỗi niềm ưu tư trầm mặc. Hành trạng tu tập, hoằng
hóa lợi sanh của hai vị Đại Sư thật đáng ngưỡng vọng. Ngài Hám Sơn vì chí nguyện
trùng hưng Phật pháp mà gặp nạn, bị lưu đày tới miền Tào Khê. Chùa Nam Hoa bấy
giờ đang rơi vào cảnh hoang phế điêu tàn, phong vị thiền môn không còn, Tăng
chúng suy đồi bạc nhược. Trước tình cảnh này, Ngài Hám Sơn liền đứng ra kêu gọi
đồ chúng cùng hỗ trợ chấn hưng tu bổ lại ngôi Tổ đình, tiếp nối sự nghiệp hoằng
hóa của Tổ sư…
Đoàn chúng tôi đảnh lễ nhục thân Lục Tổ và hai vị Đại
Sư xong thì vừa đến giờ đóng cửa. Khi cánh cửa gỗ dần khép lại, mọi người vẫn
còn nấn ná chưa muốn rời xa. Trời về chiều, du khách qua lại thưa thớt. Tăng
chúng cùng cư sĩ trong chùa lúc này lo quét dọn các nơi. Cách chỗ chúng tôi đứng
không xa có hai vị Tăng trẻ vận hậu vàng đang quỳ lạy Tổ phía ngoài cánh cửa.
Hỏi ra mới biết, hai vị là học Tăng vừa đi xa về vội đến lạy Tổ để trình diện.
Ôi! Miền Lãnh Nam xưa nay có biết bao điều kỳ diệu. Phật học viện bây giờ chẳng
phải là Thiền đường thuở xưa, nhưng nhìn hai vị Tăng trẻ lạy Tổ hết sức thành
kính đủ thấy quy củ Thiền môn luôn được giữ gìn nghiêm mật.
Chúng tôi nghỉ đêm trong ngôi chùa Ni cách Nam Hoa
một đoạn đường vòng qua bên kia dãy núi. Từ chiều, hai cô Phật tử đã nhiệt tình
đưa chúng tôi về đây và cho biết chùa có vị Ni vừa viên tịch. Quý vị bận rộn với
việc tụng niệm nhưng tiếp đón chúng tôi thật nồng hậu thạnh tình. Sư trụ trì
cùng cô tri khách hỏi thăm rồi đưa đến tận phòng nghỉ. Quý vị tỏ vẻ ngạc nhiên
và thú vị khi biết chúng tôi là Ni Việt Nam đến tham bái Lục Tổ và càng ngạc
nhiên hơn nghe nói sư cô Tâm Hiếu là du học sinh người Việt mà lại nói tiếng Hoa
thật quá ư lưu loát bặt thiệp.
Phật giáo mỗi hệ phái, mỗi xứ sở thường có những nghi
lễ tập tục khác nhau. Nhưng nghi thức tống táng của Phật giáo miền Tào Khê thật
đặc biệt. Khi một vị Tu sĩ vừa viên tịch liền được đặt ngồi theo thế kiết già,
khâm liệm rồi mới đưa vào cổ quan tài đóng ván vuông vức. Đồng đạo cùng đồ chúng
ngồi quanh niệm Phật tiếp dẫn suốt một ngày một đêm sau đó mới đưa đi an táng
phía sau núi. Ba năm sau người ta đào lên mở nắp áo quan. Nếu thi hài mục rã họ
sẽ nhặt xương cốt đem chôn lại. Còn như thi thể còn nguyên vẹn, chứng tỏ vị ấy
tu hành chứng quả thì chùa làm lễ long trọng thỉnh nhục thân đem về thờ tự.
Không biết xưa nay miền Tào Khê có bao nhiêu vị tu chứng. Nhưng nhục thân Lục Tổ
cùng hai vị Đại Sư cũng đủ minh chứng về lý đạo cao siêu mãi hiện hữu giữa chốn
thiền môn thanh tịnh.
Màn đêm buông xuống. Trời bắt đầu se lạnh. Khung cảnh
núi rừng về đêm thật yên ả trong lành. Nằm trong căn phòng kín gió với chăn mền
ấm áp cũng không làm cho mọi người ngủ được. Nhiều lần tôi trở dậy ra ngoài hành
lang chỉ để ngắm nhìn trời đêm và lắng nghe mọi tiếng động quanh mình. “Khi
tâm ta đối cảnh thanh tịnh thì nghe được cả thanh âm của chư Phật chư Tổ vọng
lại từ thinh không… Đây gọi là không nghe mà nghe. Không nghe bằng ngôn ngữ mà
nghe bằng pháp ngữ”. Giữa cảnh tịch liêu của núi rừng, cái nghe của tôi chỉ
giới hạn trong tiếng gió vi vu giữa rừng cây lá đổ và tiếng niệm Phật Di Đà phát
ra từ ngôi nhà Tang lễ. Nghe câu niệm Phật cũng là để nghe lại tâm mình. Dù cách
biệt về phương ngôn mà lý đạo vẫn dung hòa. Tâm thanh tịnh, cảnh thanh tịnh,
tiếng niệm Phật trợ duyên cũng trở nên diệu dụng.
Sáng sớm khi tiếng kiểng báo giờ điểm tâm của chùa
vang lên thì chúng tôi cũng gọn gàng hành lý bước xuống giảng đường nói lời từ
giã. Sư trụ trì cố mời chúng tôi dùng bữa nhưng mọi người đều lấy làm tiếc vì xe
đang đợi phía dưới. Vậy mà đi chưa ra khỏi con đường trong rừng cây thì cô tri
khách đã theo kịp đưa cho chúng tôi một giỏ đầy trái cây, bánh kẹo. Cô bảo sáng
nay quý cô còn leo núi mà chưa dùng gì nên cô không thể yên tâm. Món quà tiễn
đưa lúc này thật có ý nghĩa. Nhờ gói lương thực lót dạ của cô mà chúng đủ sức
leo núi Đan Hà cho đến tận trưa mới đến được một ngôi chùa ở lưng chừng núi.
Như mọi sự đến đi trong cuộc sống, chặng đường nào
rồi cũng phải đến hồi kết thúc. Hành trang chúng tôi mang về không có gì ngoài
những di vật cùng ân nghĩa đạo tình góp nhặt từ miền đất Tổ xa xôi. Với tôi, một
lần đảnh lễ Lục Tổ như thế cũng đủ để trải nghiệm niềm tin, chí hướng qua muôn
dặm đường đi tìm chân lý.
No comments :
Post a Comment