
Program in Korean Studies
State University of New York at Stony Brook
State University of New York at Stony Brook
TN. Tinh Quang dich
Tóm tắt
Khó khăn trong việc phát triển một mô hình lý thuyết cho Phật Giáo trong việc tham gia với các vấn đề xã hội đương đại bắt nguồn từ chính
bản chất của Phật giáo như là một luận cứ bản thể học hướng đến sự cứu rỗi cá nhân thông qua sự chuyển đổi bên trong. Đó là luận điểm của tôi, tuy nhiên, khái niệm về lòng vị tha đó có thể trở thành cơ sở của một lý thuyết
Phật giáo về sự công bằng xã hội mà không gây nguy hiểm cho tâm
điểm của Phật giáo về sự cứu rỗi
cá nhân. Trong bài viết này, tôi đưa ra khái niệm then chốt của lòng vị tha như thế nào và có thể cung cấp một nền tảng khả thi đối với sự công bằng xã hội Phật giáo, bằng cách so sánh nó với một
trong những lý thuyết đương đại của
phương Tây có ảnh hưởng nhất đối với
việc công bằng xã hội, lý
thuyết này của nhà triết học người Mỹ John Rawls. Dựa trên lý tưởng Bồ
tát và các khái niệm của Phật giáo về bệnh tật và cách chữa bệnh, và tôi sẽ chứng minh về phương cách lợi tha như thế nào có thể phục vụ như là một sự liên kết cho phép
Phật tử
dấn thân vào xã hội, ngay cả trong khi
đang
theo đuổi mục tiêu tự độ mình.
Giới thiệu
Mục tiêu giáo pháp của đạo Phật là đạt được sự bình an nội tại xuyên qua kinh nghiệm giác ngộ, điều này thường được mô
tả như là Giải thoát hay Niết
bàn. Lý tưởng cuối cùng - niết bàn, được sử dụng phổ
biến hơn xuyên qua những Phật tử Theravada trước đây, thường được dịch
như là một trạng
thái bị dập tắt hay thổi tắt. Nó đề cập đến việc
loại bỏ các chướng ngại
tinh thần, thường được gọi là phiền não, chủ yếu có
nguồn gốc từ ba độc tham, sân
và si. Sư giải thoát, với một nghĩa khác, một thuật ngữ được
ưa thích bởi các Phật Tử Đại thừa về
sau, có một quan điểm
rộng hơn một chút, vì nó không đề cập đến
việc loại bỏ một vài
trạng thái của tâm, nhưng đúng hơn là
để đạt được trí tuệ, được hiểu như là sự tự do từ mối ràng buộc của cuộc sống và cái chết, samsra (sự luân chuyển), cũng như
tách khỏi sự
trói buộc xã hội
và lịch sử.
Bởi vì nó nhấn mạnh đến việc
tự độ, Phật giáo thường được xem như là
một tôn giáo trầm
lặng, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Dĩ
nhiên, đây là một sự quá phóng tưởng. Lý tưởng Bồ Tát của Phật giáo Đại
thừa, Học thuyết Tịnh Ðộ, và tư
tưởng vị tha, đã
xuất hiện thường
xuyên ở Trung Quốc trong thời gian chính trị
bất ổn, bao gồm
việc vượt qua cá nhân đễ dấn thấn cứu độ xã hội như một toàn thể. Tuy nhiên, sự thật
rằng, ngay cả ngày nay, tư tưởng
Phật giáo hiếm thấy, nếu không nói là chưa
bao giờ nhấn mạnh chủ đề công bằng xã hội theo nghĩa hiện đại, có nghĩa là, về những
đề tài như nhân quyền, phân
phối công bằng các nguồn lực, các
quy ước công bằng của pháp luật, và
tự do chính trị. Như đã thấy trong
các kinh văn Đại thừa, như Giáo lý của
Vimalakrti (Bất
nhiễm hoặc Duy Ma Cật), nhóm từ thường được chú ý, một khi tâm trở nên thanh
tịnh, xã hội cũng sẽ được tịnh hóa, (1) đã
cho chúng ta thấy rằng Phật giáo có một khái niệm
khá ngây thơ liên
quan đến các vấn
đề xã hội: lợi ích cộng đồng
có thể được thực hiện thông qua việc thúc đẩy đạo đức cá
nhân (2)
Tuy nhiên, Phật giáo hầu như không đơn
độc trong vấn đề này. Hầu hết tất cả các triết lý và
tôn giáo cổ xưa quan tâm rất ít đến các vấn đề công
bằng xã hội theo nghĩa hiện đại. Ngay
cả Thiên chúa giáo đã đề cập các vấn đề xã
hội từ thời kỳ
đầu cũng không cân
nhắc đến chính nó với những câu hỏi của công bằng xã hội hoặc sử dụng thuật ngữ trong
các văn bản chính thức cho đến hậu bán thế kỷ XIX. Thật vậy, đến thế kỷ XVIII,
việc đòi hỏi bình
đẳng xã hội mới nổi lên như một vấn đề quan trọng trong tư tưởng chính
trị và triết học xã hội ở phương
Tây. Ba thế kỷ qua đã cho
ra đời sự trưởng thành của các khái niệm chủ chốt như sự bình đẳng công dân, chính trị, và sự
phân phối công bằng các nguồn lực kinh tế
Tuy quá trình hiện đại hóa này
đã
lèo lái sự phát triển của triết học xã hội ở phương Tây
lại
là sự phát triển trì
trệ nghịch lý ở phương
Đông. Kinh nghiệm hiện đại hóa một cách muộn
màng khi việc Tây hóa bắt đầu bởi sự tiếp xúc quân sự và kinh tế với các cường quốc phương Tây thực dân, trí thức phương
Đông mất niềm tin trong
truyền thống bản
địa của họ, rồi họ xem chúng như những di tích của quá khứ mà
không có liên
quan đến các vấn đề đương đại. Kết quả là,
triết lý và tôn giáo bản địa, chẳng hạn như
Phật giáo, đã bị
bỏ quên trong
việc ủng hộ các nghiên cứu
về tư tưởng phương Tây.
Quá trình này chỉ mới bắt đầu để đảo
ngược chính nó. Như phương
Đông ngày càng trở nên ý
thức được các giá trị của bản sắc văn hóa riêng của mình,
một sự gạn lọc mới của tư duy
đang phát triển, họ quan tâm không chỉ trong việc liên
hệ đến truyền thống với những cân nhắc hiện đại, mà trong việc đánh giá lại truyền
thống với sự tìm kiếm các giải pháp cho
các vấn đề của xã hội đương
đại. Cái gọi là Phật
giáo dấn thân, là
những nỗ lực để giải quyết các vấn đề như môi trường, giới tính bất bình đẳng, và nghèo đói, là một trong những nỗ lực đặc
trưng hiện đại trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên, nó quá đa dạng để được coi là một phong trào duy
nhất, và vẫn còn quá mới để
phát triển
được một mô hình lý thuyết cho việc tham gia
của Phật giáo với
các vấn đề xã hội hiện
đại.
Khó khăn trong việc phát triển
một mô hình như vậy bắt nguồn
không chỉ trong nhiều thập kỷ trì trệ trí tuệ, nhưng
một cách cơ bản hơn, trong chính
bản chất của Phật giáo như là một lý luận bản thể học nhằm
tự cứu độ thông qua việc
chuyển đổi bên trong. Tất
nhiên, vấn đề này không phải chỉ
riêng Phật
giáo, tất cả
các tôn giáo phải đối mặt với tình
sự thế tiến thoái lưỡng nan về việc cân bằng những
nhu cầu của sự
tự độ và sự dấn thân vào xã hội. Vì lý do này, tôi muốn trình bày dự kiến một số gợi ý về
những khái niệm vị tha như
thế nào, một giáo lý cốt
lõi của Phật giáo, có thể được ứng dụng để hình thành cơ sở của lý thuyết Phật giáo về công
bằng xã hội mà không gây nguy hiểm cho then
chốt của Phật giáo về
việc tự độ mình. Tôi sẽ bắt đầu bằng
cách chứng minh làm thế nào lòng vị tha có
thể cung cấp một nền tảng
khả thi cho sự bình đẳng xã hội Phật giáo bằng
cách so sánh nó với
một trong các lý
thuyết đương đại có ảnh hưởng
nhất của phương Tây về sự
bình đẳng xã hội
xuyên qua nhà
triết học Mỹ
John Rawls, khi làm như vậy, tôi sẽ chứng minh rằng Phật giáo hàm dung trong tự thân các khả năng tiềm ẩn cho
một lý thuyết về công bằng xã hội
phù hợp với nhu cầu của xã hội đương đại. Sau đó tôi sẽ tập
trung vào các
khái niệm của
lòng vị tha như thế nào mới có thể phục vụ như
là một sự liên kết,
qua đó hướng dẫn Phật tử tham
gia xã hội, ngay cả trong khi theo đuổi mục tiêu của sự tự
độ lấy mình.
Lòng
Vị tha và sự công bằng xã hội
Phật giáo có bao gồm tiềm năng cung
cấp một
lý thuyết về sự công bằng xã hội phù hợp với nhu
cầu của xã hội hiện đại
không?
Thật thú vị để cân nhắc câu hỏi này trong ánh sáng của tác
phẩm của Triết gia Mỹ John Rawls, phần lớn vì cuốn sách của ông:
A Theory of Justice (Học Thuyết Công
Bằng) có
ảnh hưởng đáng kể, có thể đại diện cho đỉnh cao của tất
cả mọi lý thuyết ngoại trừ Phật giáo. Mặc dù nó được xây
dựng để phát triển sự công bằng xã hội, lý thuyết của Rawls
rõ ràng là phi luân lý,
trong đó nó không thừa nhận khuynh hướng
đạo đức đặc biệt trong
cá nhân, và nó cũng không quan tâm đến việc tìm thấy một sự
bao quát quyền uy siêu việt hoặc tôn giáo để thực thi khái niệm lợi
ích xã hội
của nó. Thay
vào đó, nó tìm cách để chứng minh
phương
cách công bằng xã hội có thể được xây dựng dựa trên quyền
lợi cá nhân, và do
đó nó ít tập trung vào hành vi cá
nhân và thêm vào các tổ chức xã hội quy định hành vi
đó. Trong
khả năng giải thích và thuyết
phục, nó là một
chiến thắng của tính duy lý phương Tây.
Tuy nhiên, đó là niềm tin của tôi, nhãn hiệu về kỹ thuật xã hội của Rawls cung cấp cho Phật Giáo một cơ hội quan trọng để làm rõ mối quan hệ còn non yếu của chính nó đối với câu hỏi công bằng xã hội. Nhưng để làm được điều này, đầu tiên chúng ta phải thảo luận lý thuyết của Rawls chi tiết hơn một chút.
Tuy nhiên, đó là niềm tin của tôi, nhãn hiệu về kỹ thuật xã hội của Rawls cung cấp cho Phật Giáo một cơ hội quan trọng để làm rõ mối quan hệ còn non yếu của chính nó đối với câu hỏi công bằng xã hội. Nhưng để làm được điều này, đầu tiên chúng ta phải thảo luận lý thuyết của Rawls chi tiết hơn một chút.
Nói chung, lý thuyết của phương Tây về công bằng xã hội khởi
đầu với mục
đích để hợp
pháp và đảm
bảo quyền tự do cá nhân nhằm theo đuổi lợi ích riêng của mình. Một khái niệm
của homo economicus (con
người kinh tế) như thế thì không chỉ đơn thuần là một sản phẩm của các
học thuyết kinh tế và xã hội
đã được bắt nguồn từ (và) sự hỗ trợ xã hội tư bản, nhưng cũng có gốc
rễ sâu trong truyền thống phương
Tây trước đó với chủ nghĩa tư bản. Cá nhân và xã
hội phục vụ như
là nền tảng cho lý thuyết công
bằng xã hội của Rawls đại diện cho các cá nhân
trong việc theo đuổi lợi ích cá
nhân, và xã hội bao gồm của cá nhân đó. Đối
với Rawls, công
lý không phải là một đức tính
truyền lại cho con người một quyền hạn ưu tiên, nhưng đúng hơn là một điều kiện chung là
cần thiết để duy trì xã hội.
Theo Rawls, mặc
dù một xã hội là
một liên doanh hợp tác vì lợi ích chung, nó thường được đánh dấu bằng một cuộc xung đột cũng như tính đồng nhất của những lợi ích (Rawls 1971, 126). Vì vậy,
để giải quyết
những mâu thuẫn tồn tại giữa các thành viên của một xã hội, nguyên tắc là cần thiết để lựa
chọn giữa những xếp đặt xã hội khác nhau, xác định sự phân chia này
đối với các lợi thế và để
thực hiện một sự
thỏa thuận về sự phân chia thích hợp (Rawls
1971, 126).
Tuy nhiên, Rawls nhận ra rằng
sự bình đẳng của những nguyên tắc này phụ thuộc vào sự công bằng của tiến trình mà những nguyên tắc này có thể được
quy kết và thoả thuận. Để
đảm bảo sự công
bằng của quá trình này, Rawls
định đề một vị trí được gọi là ban đầu
cho những người
có trách nhiệm trong việc tạo
nên nguyên
tắc, điều
đó có nghĩa là người ra quyết định ý tưởng của mình là không
miễn cưỡng bởi sự độc đoán ngẫu nhiên hoặc sự cân bằng tương quan của các lực lượng xã hội (Rawls
1971, 120). Để
đảm bảo sự thiếu
chế ngự này, Rawls tiếp tục
thừa nhận những gì mà ông ta gọi là bức màn vô
minh, có nghĩa là người
tạo ra
quyết định của mình không có kiến thức về vị trí của họ trong xã hội mà họ đang
thiết kế. Họ có thể là tốt, hay kém học thức, tài năng, hoặc ngu si đần độn, không có được trang bị để cạnh tranh, hoặc không
có khả
năng. Rawls
tin rằng điều này không chắc chắn khi tiềm năng cạnh tranh của chính
họ trong
lĩnh vực xã hội
tự
động sẽ hướng
dẫn giả thuyết tạo
ra quyết
định của
ông ta để đi đến quy tắc vô tư về công bằng xã hội mà có
thể bảo vệ các thành viên ít cạnh tranh của xã hội
và đảm bảo
sự phân
phối công bằng các nguồn lực
cho tất cả mọi người. Thực
thi như
vậy sẽ
ở
trong quyền tự
lợi của
chính họ. Bởi vì
màng vô minh, động cơ mạnh mẽ nhất cho sự công bằng là khả năng mà bạn có thể là bất kỳ ai trong cộng đồng.
Về phương pháp luận của nó, lý thuyết công bằng xã hội của Rawls được dựa trên chủ
nghĩa đạo đức: phát họa từ truyền thống triết học phương Tây, đặc biệt là của Kant, ông ta phát triển một tập hợp các giả
định về đạo đức trong khi
vẫn ở trong
phạm vi của một chủ nghĩa kinh nghiệm nghiêm khắc. Tuy nhiên, tôi tin
rằng học thuyết của Rawls cung
cấp một số gợi ý hấp
dẫn bằng phương pháp xây dựng một mô
hình đối với lý
thuyết công
bằng xã hội Phật giáo. Dĩ nhiên, đó không phải là quan điểm của Phật giáo đồng ý với lý
thuyết của Rawls,
nhưng đó là công việc của Triết gia phương Tây cung cấp cho chúng tôi một phương
hướng kích thích để
tác động phi thời gian, sự
quan tâm Bản thể học của Phật giáo với thế giới hiện tượng của sự giao thoa xã hội. Điều
này có nghĩa là, nó giúp làm rõ các mối quan
hệ trong Phật giáo giữa sự tập trung vào Tự tánh và Tự giác,
một sự cân nhắc bản thể
học và sự
cần thiết để suy nghĩ về hành
vi hàng ngày của các
hành giả Phật
giáo trong
xã hội như là một sự cân nhắc đối với hiện tượng bên ngoài.
Thoáng nhìn, chủ nghĩa Duy lý phi luân lý mà
Rawls dựa trên học thuyết về công bằng xã hội của
mình có thể dường như là điều xa nhất đối với Phật giáo, nhưng suy nghĩ xa
hơn đã để lộ một vài nối kết đáng ngạc nhiên. Lý thuyết của Phật giáo về
lòng vị tha, khi được
cân nhắc trong những chuẩn mực của cá nhân và vị trí của đương
sự trong
cộng đồng, thực sự trở thành một điều gì đó của quyền lực xã hội to lớn: sự
thể hiện bành trướng của bản ngã. Trong Phật giáo, đó là bản ngã được tái xác định bao gồm tất cả các bản ngã khác thông qua lý thuyết về sự thâm nhập
lẫn nhau. Và điều này đưa
chúng ta đến một giao
điểm lý
thú với Rawls; nếu giả thuyết thiếu hiểu biết và khả năng mà tôi có thể là bất cứ ai trong cộng đồng là
điểm khởi đầu cho khái niệm của ông
ta về sự
công bằng, Phật giáo cung cấp
một
sự tương ứng đáng
ngạc nhiên với khái niệm về lòng vị tha vô
ngã, với
quan niệm rằng tôi là tất cả mọi người trong cộng đồng xã
hội.
Tôi tin rằng lý thuyết vị tha của
Phật giáo có thể
phục vụ như là
một điểm khởi xướng cho một học thuyết về Công bằng xã hội hợp lý, có tính thuyết phục như lý
thuyết mà Rawls gợi ý. Nhưng để
thực hiện điều này, Phật
giáo sẽ phải nghiên
cứu phương cách làm thế nào để ra khỏi thuyết bản
thể học truyền
thống của sktras
và giáo lý Phật giáo cổ điển, tập trung vào việc tự
chuyển hóa và tự
tìm kiếm mình cho sự giác ngộ cá nhân và bên trong luận đề
hiện tượng của lĩnh
vực xã hội có
ý nghĩa
chính trị, kinh tế và pháp luật. Trong ý
nghĩa đó, lý thuyết về lòng vị tha, ý tưởng rằng tôi là tất cả
mọi người trong
cộng đồng, có thể trở thành một ngõ
vào của lý thuyết
xuyên qua
các nhà tư tưởng Phật
giáo đi từ
lĩnh
vực bản thể học đến hiện tượng của luận
thuyết.
Dĩ nhiên, sự khác biệt giữa mô hình của Rawls về
tính công
bằng xã hội và
bất cứ mô hình nào của Phật giáo cuối cùng thì
cũng sẽ được phát
triển đáng
kể. chắc chắn hơn, mô hình Phật
giáo sẽ chú trọng
ít hơn các tổ
chức xã hội và nhiều hơn nữa về hành vi của cá nhân, đặc biệt là về
phẩm chất cá nhân
như lòng từ
bi và
tính hỷ xả được xem là nhân
tố góp phần vào việc tìm kiếm sự
giác ngộ. Đúng vậy, sự thực này đưa đến ngã rẽ cuối cùng không thể tránh khỏi giữa nhãn
hiệu của Rawls về kỹ thuật xã hội duy lý và Phật giáo. Đối với Rawls,
việc đạt được công bằng xã hội là một sự kết thúc trong chính nó, và những mối quan tâm triết học của
ông ta dừng lại ở đó. Một khi tínhcông bằng xã hội
đã đạt được, không có gì hơn để nói. Rõ ràng, đây không thể là trường hợp đối với Phật giáo, được tập
trung như là sự cân nhắc cuối cùng về sự giác ngộ cá nhân. Đối với Phật giáo,
điều
quan tâm với công bằng xã hội
rốt cuộc phải được
hướng dẫn trở lại đối
với việc tìm kiếm giác ngộ. Lý thuyết vô ngã có
thể phục vụ như là một ngõ vào học thuyết từ luận đề bản thể học với hiện tượng, nhưng nó phải tác
động như
là cả lối vào và lối ra. Sự tham
gia với lĩnh
vực hiện tượng công
bằng xã hội phải đưa Phật giáo trở lại thuyết bản thể học và sự tìm cầu
đối với giác ngộ.
Lòng vị tha
của Bồ Tát: Cứu hộ chính mình bằng việc cứu hộ người khác
Như đã đề cập trước đó, tôi
tin rằng khái niệm vị tha có thể được sử dụng để liên
kết các mục tiêu công bằng xã hội và tự
giác dường
như mâu
thuẫn. Tuy nhiên, để để
nhận diện như
thế nào, chúng
ta sẽ phải trở lại một bước và thảo luận về những ý tưởng Phật
giáo về đau khổ, chữa tri đau khổ, và lý tưởng Bồ Tát, điều rõ ràng duy nhất là
phương thức công bằng xã hội và việc
tìm cầu giác ngộ cá nhân thực sự có thể phục vụ củng
cố lẫn nhau.
Trong Phật giáo, quá trình phát
triển tâm linh thường được so sánh với
sự chữa lành bệnh tật.
Trạng thái Chân lý đầu tiên
trong Tứ diệu đế là Khổ, nhưng theo quan
điểm của Phật giáo, đau khổ có thể được chữa khỏi nếu áp dụng được các biện pháp khắc phục thích hợp.
Đau khổ bắt nguồn từ những ham muốn trong tiềm thức của chúng ta, thường được gọi là
thèm khát, nên bao gồm sự mù quáng và
thúc đẩy mãnh
liệt của chúng. Bởi vì bản chất mù
quáng của những mong muốn nói chung, sự thèm khát này, gây ra những căn
bệnh gốc rễ của đau khổ con người,
thường bị đánh đồng với vô
minh (thiếu hiểu
biết). Tất cả các bệnh khác chỉ là
triệu chứng của
căn bản thiếu
hiểu biết. Triệu chứng chủ yếu là sự ràng buộc đối với các đối tượng bên ngoài và những thứ bên trong chính mình, cái
này được gọi là
Tự ngã.
Căn cứ vào bệnh
trạng này, Đức Phật đã đưa ra biện pháp khắc phục. Ngài tin tưởng
sự giác
ngộ, hay hạnh phúc như là
sự đối lập với khổ đau, là vốn
có trong mỗi
người, có nghĩa là hạnh phúc có thể đạt được bằng cách điều
trị gốc rễ căn
bệnh bên
trong chúng ta.
Như đã nêu ở phần đầu của bài viết
này, Phật giáo nhấn mạnh vào việc
tu tập bằng việc tự tìm kiếm sự giác ngộ,
chính là lý
do tại sao
nó không phát triển
một triết lý xã hội
chín chắn. Tuy nhiên, dù Đức
Phật không bao giờ có ý định tạo ra một tư
tưởng chính trị, chắc chắn ngài không bao giờ bỏ quên những người khác. Ngài đã giáo dục các đệ tử của mình và giúp họ
đạt được tuệ giác, sau đó ngài đã khuyến
khích họ truyền bá sự giác ngộ cho những người khác: “Các Tỳ Kheo, hãy bước đi vì phước lành của nhiều
người, vì hạnh phúc của số
đông, vì lòng từ bi đối với thế
giới; vì phúc lợi, phước lành, hạnh phúc của chư thiên và loài người. Đừng
nên đi chung hai người trên một con đường.”(3)
Bước đầu Phật tử nhận thức thông điệp này có nghĩa là Đức
Phật yêu cầu các đệ tử của mình phục vu cho tha nhân, nhưng nó cũng được hiểu với nghĩa là để giúp đỡ tha nhân đầu tiên hành giả phải có
được sự giác
ngộ, và do đó tự
điều trị rõ ràng là
quan điểm ứng dụng đặc trưng trong trong một câu châm ngôn Phật giáo: “Người bị bệnh không thể chữa trị
cho những
người khác.” Kết quả là, Phật tử lo bận rộn với công việc tự điều
trị mình, và thế là hầu như trở nên thụ động trong lĩnh
vực xã hội.
Tuy nhiên, như đã nói, nó sẽ là một
việc thô thiển quá đơn giản hóa
để cho
rằng Phật giáo không
chú ý đến chiều hướng kinh
nghiệm con người giữa các cá nhân. Niềm tin đầu
tiên rằng những người bị bệnh không thể chữa trị
bệnh
trạng cho những
người khác đã
khiến thay đổi hoàn toàn lý tưởng Bồ tát,
điều
này đã xuất hiện trong giai đoạn sau
này của Phật giáo được biết như là Phật giáo
Đại thừa. Hình
ảnh đại diện cho giáo phái mới này: Bồ Tát, đã
thể hiện bầu không khí xã hội-tôn giáo mới vào
giai đoạn khi Phật
giáo Đại
thừa bắt đầu xuất hiện ở Ấn Độ.
Ai
Cứu Khổ?
Một vị Bồ Tát, theo định nghĩa, là một ứng cử viên của quả vị Phật, thường được đề
cập trong
các kinh văn đầu tiên của Phật giáo, như là sự
tiêu biểu cho đời sống tiền kiếp của Đức Phật. Trong nhiều kiếp tái sinh,
Đức Phật từng là Bồ Tát xuất hiện trong nhiều loài khác nhau của kiếp sống, làm một con vật hay một con người, và làm một
người quý
tộc hay thường dân. Những câu chuyện cuộc sống
gương mẫu của những vị Bồ Tát đã được biên soạn trong Jtaka
(Những câu chuyện tiền thân của Đức Phật). Tuy nhiên, Phật tử Đại
thừa cảm thấy những câu
chuyện về tiền kiếp của Đức Phật không chỉ đơn thuần là một ký tích của quá khứ, nhưng, đúng hơn là mô hình mẫu mực để nương theo trong hiện tại. Những
ai nỗ lực thực hành hạnh nguyện anh hùng của Đức Phật
trong cuộc sống quá khứ của mình cũng có thể trở thành Bồ Tát. Với mục đích của chúng ta
ở đây, tầm quan trọng chủ yếu của lý tưởng Bồ tát trong
Phật giáo Đại thừa đó là Bồ Tát tự
tu tập bằng phương
pháp cứu độ những người khác. Chúng tôi tìm thấy đoạn văn sau trong Vajradhvaja-sktra:
Một Bồ tát phát nguyện: Tôi nguyện
mang trên mình gánh nặng của mọi khổ đau, tôi quyết làm
như vậy, tôi sẽ chịu đựng điều
này, và vì sao? Vì tất cả loài hữu tình trên thế giới mà
tôi cứu độ, từ những
nhỗi đau đớn của sinh, già, bệnh,
chết và tái sinh,
nên bằng mọi giá tôi phải chịu những thống
khổ của tất cả chúng sinh. (Conze et al. Trans.
Năm 1964, 131)
Đây không chỉ đơn giản là lòng từ bi
hướng đến nhu cầu của người khác. Vì tinh thần Bồ Tát, ở nền
tảng của giáo lý vô ngã,
đã được nhấn mạnh nhiều lần kể từ sự
khởi đầu của Phật giáo, trong thực tế là không có sự khác biệt giữa mình và tha nhân. Tính chất Vô ngã trong Phật giáo không chỉ đơn thuần là việc từ chối một bản ngã đặc
trưng khi so sánh với linh hồn trong truyền thống phương
Tây; nó cũng hàm ý một quan
điểm Bất
nhị về Tôi và những người khác, và xác định sự dung
nhiếp về
sự tồn tại của
chính mình vượt ra ngoài ranh giới của tự
ngã, bao gồm những
người khác. Với
Bồ tát, những người khác không có gì hơn là sự mở rộng tồn tại của chính mình. Ông ta ôm lấy tất cả những người khác như chúng ta, không chỉ gồm tôi và bạn, mà còn cả
mọi loại.
Khái niệm vô ngã như vậy mở ra con đường để
nâng cao nhận thức xã hội và sự cần thiết dấn
thân. Vimalak+rti
(Duy Ma Cật) , một hình
ảnh Bồ tát Đại thừa đặc trưng, đồng nhất tật bệnh của tất cả chúng sinh với chính
mình, khi ông ta nói: “tôi bệnh bởi
vì tất cả chúng sinh bị bệnh; khi tất cả bệnh tật của chúng sinh đã được chữa khỏi,
tôi cũng sẽ lành
bệnh.”(4) Vì
lý do này, ông ta trì hoãn sự giác ngộ của chính mình và nguyện tái sinh một lần nữa và cứ
tiếp tục cho đến khi tất cả chúng
sanh được
cứu độ hết. Giá
trị tinh thần của sự lựa chọn này
nằm trong sự tham
gia tích cực của nó trong xã hội
và trong quan điểm mà
xã hội là một phần mở rộng của
sự tồn tại của chính mình. Thật
vậy, Vimalakrti cung cấp những vị Bồ Tát để chuyển hóa các kinh nghiệm
của bệnh tật thành những
điều tích
cực, một cái gì đó mà tạo ra năng lượng phấn đấu,lành mạnh:
Vì bệnh tật của mình, ông
ta thương xót tất cả những người bệnh
khác. Ông ta biết được sự đau khổ của vô số kiếp
trong đời sống ở
quá khứ, và vì lý do này, ông ta nghĩ đến hạnh phúc của tất
cả chúng sinh. Ông ta quan tâm về cuộc sống thanh
tịnh. Thay
vì gây nên khổ đau phiền não, ông ta
không ngừng thúc
đẩy để phát triển năng lực. Ông ta trở thành một vị vua
của lương y và chữa trị tất cả các thứ
tật bệnh. (5) Ở đây chúng ta
thấy rằng những kinh nghiệm đau
khổ được biến thành năng
lực để điều
trị cho người
khác: Không có kinh nghiệm đau khổ bệnh hoạn
thì người ta không có khả năng để chữa trị người
khác. Ở điểm này Raoul Birnbaum
đã phát biểu một cách xuất sắc rằng:
Vì Bồ Tát, và kinh nghiệm về
bệnh tật sẽ không
là một yếu tố cản trở mà là
một chất xúc tác, chức năng cuối cùng của
nó là tái kích thích và phát triển diệu dụng của tâm linh. Thay
vì Bồ Tát tìm
kiếm sự giải thoát khỏi
cơn đau trên thân thể của mình bằng
cách nhập vào hạnh phúc của
niết bàn, bệnh tật giúp ông ta đạt được một trình độ cao hơn, nhắc nhở ông
ta
về tình huynh đệ thiết yếu của con người vốn có trong sự chia xẻ nỗi đau khổ
về hoạn nạn. Ý
thức về sự liên hệ của mình đối với tất cả chúng
sinh, ông ta
phát khởi sự quyết
tâm của mình nhằm cứu giúp người khác. (Birnbaum, 1979,
14)
Thật vậy, điều này có vẻ như thể Bồ Tát đúng nghĩa thực sự chấp nhận hoặc tìm kiếm những kinh nghiệm của bệnh tật . Chúng ta hãy đọc đoạn kinh văn trong Vajradhvaja-sktra:
Với giới hạn về sự chịu đựng của mình, tôi sẽ kinh nghiệm trong tất cả các trạng thái thống khổ, được tìm thấy trong bất kỳ hệ thống
thế giới, tất cả những nơi có đau khổ và tôi nguyện thị hiện trong
từng mỗi quốc độ với vô lượng vô số kiếp; và vì vậy tôi sẽ cứu giúp tất cả chúng sinh
tự do, trong tất
cả các quốc
độ có nỗi thống
khổ mà tôi có thể
tìm thấy được. (Conze et
al trans. Năm
1964, 131)
Tại sao Bồ Tát chọn lựa hứng chịu sự đau khổ của người khác? Làm thế nào mà
ông ta có
khả năng để giúp
họ và hướng
dẫn họ
và cũng như
ông ta cuối cùng đạt đến giác ngộ? Đây
là chỉ vì bằng việc hoàn
toàn ôm
lấy kinh nghiệm của người khác mà hứng chịu một cách tự nhiên bệnh
tật và đau
khổ của họ, ông ta có thể hoàn
toàn nhận ra
chính mình là
đồng nhất với họ. Kinh nghiệm
cảm thụ bản thân thành bệnh tật của người
khác, và do
đó nhận ra bản chật đồng nhất của mình với họ, là ý
nghĩa duy nhất mà Bồ
Tát có thể phát triển trí tuệ và lòng từ bi, đức tính mà Bồ
tát cần thiết để chỉ bày cho những người khác là nguyên nhân bệnh tật của họ. Tương tự như vậy, ông ta có thể sử dụng những phẩm chất tương ứng của trí tuệ và từ bi để
khám phá ra
lý do tại sao bản thân ông ta cũng đau
khổ.
Rõ ràng, cuộc thảo luận ở trên được neo trên cấp độ Thần học cứu
thế (soteriology), không phải xã hội triết lý. Bồ Tát tìm cách chữa trị
sự đau khổ bản
thân bằng cách đạt được giác ngộ, nhưng bởi sự hiểu biết sâu sắc của ông ta về giáo lý vô ngã, ông ta nhận ra rằng để thực hiện thì bước đầu tiên
ông ta phải cứu độ tất cả các chúng sinh khác. Điều này đòi hỏi một sự dấn
thân tích cực với sự đau khổ của họ, và
hơn nữa, một lời nguyện sẵn sàng để tìm
nguồn cảm hứng cá nhân trong cuộc đấu tranh chống lại khổ đau
còn hiện hữu.
Tuy nhiên, dù sự quan
tâm ở đây chắc chắn là thuyết cứu thế, cơ sở của một lý thuyết mới của công bằng xã hội cũng hiển nhiên rõ
ràng. Tất cả những gì chúng ta cần làm
là di chuyển từ cấp độ Bản thể
học hoặc Thần học cứu thế xuống ở cấp độ hiện tượng xã hội. khi chúng ta quản lý sự di chuyển này, giáo lý vô ngã cung cấp những
bước cụ thể mà chúng ta cần, trong đó nó thừa nhận sự phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các thành viên xã hội và tính chất chia sẻ tự
nhiên của tất cả các loại khổ đau: tinh
thần, thể chất, tình cảm, và kinh tế. Để đặt nó vào cách khác: giống như những lập luận
lý thuyết của Rawls, để đảm bảo sự công bằng về pháp luật của họ, buộc phải tưởng tượng chính
mình ở trong tình trạng của bất cứ ai trong xã hội, học thuyết Vô ngã đòi hỏi các Phật tử tự xem mình như
là thực thể của tất cả mọi người trong xã hội. Các tác động xã hội của
quan điểm này tất nhiên là mạnh mẽ: cái nghèo
đói cô ấy trở thành cái nghèo đói của tôi, bi kịch của anh ta là bi kịch của tôi. Và khi kết hợp với mô hình dấn
thân tích cực được un
đúc bởi lý tưởng Bồ tát, trong đó cá
nhân lành mạnh được thể
hiện bằng cách giúp đỡ người khác, chúng
tôi đột nhiên nhận ra chính mình
với một lý do vững chắc cho hoạt động xã hội.
Một lý thuyết chi tiết của Phật giáo về công bằng xã hội sẽ bao gồm những gì? Một
xã hội giống như từ quan điểm của Phật giáo sẽ
như thế nào? Đây rõ ràng là câu hỏi
vô cùng phức tạp, vượt xa phạm vi của bài viết này. Mục tiêu của tôi ở đây đã
cho thấy rằng những câu hỏi có thể được đặt ta từ một quan điểm của Phật giáo thực sự, chúng
cần thiết phải được đặt ra và đó là một nỗ lực cho câu trả lời, tuy việc thử nghiệm trong thực tế còn nhiều giới hạn.
1.
T
475 Wei mo ch i so shuo ching, 538c. In my translation, I rendered the
term fo t u (buddhak‑cetra), or buddha-field, as society, which, I believe, does not deviate much from
the original meaning, and gives a better sense of the original word in the
context of this discussion. Return to text
2.
We
might call this perfectionism, and
Confucius s notion of justice also belongs to this category. A perfectionist
notion of justice has the potential danger of restricting personal freedoms and
justifying social hierarchy. It seems to me that perfectionism is one of the
characteristics of the classical notion of justice, both in the East and West.
Agreeing with Plato, Brahmanical India viewed the purpose of the caste system
as the realization of proper social justice. One extreme case of the
perfectionist notion of social justice can be seen in the Bhagavad G+t,
a classic of Brahmanical India. In the midst of battle, Arjuna agonizes over
whether he must kill his brother, even though it is for the sake of justice;
the incarnation of Krishna (K‑[‑c‑G.a) tells him that his duty as a member of
the Kshatriya (K‑catriya) caste should come before individual ethics. It would
be worthwhile to note that the Sanskrit word Dharma means both justice as righteousness and duty.
Return to text
3.
I.
B. Horner, trans., The Book of the Discipline, vol. IV, 28 (with slight
modifications). Return to text

No comments :
Post a Comment