Trong kinh đức Phật dạy, người nào tu tập thành
tựu Bốn phép lạ của ý, thì người đó có thể làm chủ được sinh mệnh của mình.
Bấy giờ, Như Lai tuyên bố với chư thiên và loài người là Ngài
buông bỏ thọ hành và ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết bàn. Tôn giả A Nan nghe vậy
liền khóc, xin Như Lai tiếp tục ở lại đời, nhưng Như Lai nói, Ngài đã tuyên bố
buông bỏ thọ hành, nếu Ngài ở lại thêm nữa, thì nói với làm không đi đôi, làm
sao Như Lai có tính thuyết phục thiên ma, thuyết phục những hạng thiện nhơn ở
trong đời. Sau đó, Ngài liền dạy Bốn phép lạ của ý.
Bốn phép lạ của ý cũng còn gọi là Tứ như ý túc. Bốn phép lạ của ý hay Tứ như
ý túc gồm:
- Dục như ý túc: Ý muốn tu tập pháp cao thượng hay thành tựu
pháp cao thượng.
Tại sao chúng ta bị sinh, bị già, bị bịnh và bị chết? Vì do tham dục, khiến
chúng ta bị sinh, bị già, bị bịnh và bị chết. Khi chúng ta đã bị sanh, bị già,
bị bệnh và bị chết là chúng ta sống hoàn toàn mất hết tự do, sống và chết đều
không có chủ quyền.
Nên, chúng ta muốn tu tập là để vượt ra khỏi cái bị sinh, bị già, bị bịnh và
bị chết. Ước nguyện tu tập, để vượt ra khỏi cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị
chết hay sống chết đều có tự do, đều có chủ quyền, ước nguyện ấy gọi là dục như
ý túc.
Chúng ta muốn được sống trong tự do và chết ở trong tự do, hay
sống và chết đều có chủ quyền, thì chúng ta phải biết phát khởi ước nguyện và nỗ
lực biến ước nguyện trở thành hiện thực. Chúng ta phải tha thiết đoạn trừ những
hạt giống phiền não,
tham dục đang vận hành và ràng buộc ở trong tâm thức ta, vì chúng làm cho đời
sống của ta mất tự do, mất chủ quyền, chứ không phải ai khác.
Tâm ta bị hệ lụy bởi tham dục, tham dục về tiền tài, khiến ta bị
hệ lụy và khổ não bởi tiền tài; tham dục về sắc khiến ta bị hệ lụy và khổ não
bởi sắc; tham dục về danh, khiến ta bị hệ lụy và khổ não bởi danh; tham dục đối
với ăn ngủ, khiến ta bị hệ lụy và khổ não bởi ăn ngủ . . . Vì chúng ta nô lệ
tham dục, khiến cho chúng ta sống và chết đều không có chủ quyền, đều mất hết tự
do. Mỗi khi chúng ta bị hệ lụy vào cái gì, thì chúng ta bị cái đó trói buộc, vắt
cho kiệt sức và cướp mất hết chủ quyền.
Chúng ta cả triệu lần muốn vượt ra, nhưng lại cả triệu lần bị trói lại, ai
trói? Không có ai trói cả, chỉ có tham dục trong tâm của chúng ta đang trói
chúng ta. Nên, muốn sống chết có chủ quyền, có tự do, chúng ta phải biết buông
bỏ tham dục. Buông bỏ tham dục, chúng ta mới có khả năng thành tựu được sống và
chết như ý.
Nên, phép lạ nầy giúp ta lấy lại chủ quyền đối với sống và chết hay vượt
thoát tử sinh.
- Niệm như ý túc: Hay tâm như ý túc, tức là chúng ta luôn
luôn nhớ ước nguyện của chúng ta là tu tập để vượt thoát cái bị sinh, bị già, bị
bệnh, bị chết. Nếu ước nguyện đó khởi lên, nhưng chúng ta không duy trì, thì nó
sẽ tan. Duy trì ước nguyện tu tập, duy trì phương pháp tu tập buông bỏ tham dục,
giúp cho chúng ta vượt thoát sinh tử.
Khi chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, . . . chúng ta dùng năng lượng chánh niệm
làm cho những chủng tử, tham dục, hệ lụy, giận hờn, trách móc trong tâm ta lắng
xuống.
Nhiều khi không có đối tượng trước mắt chúng ta, mà chúng ta cũng tham, cũng
giận, có những sự kiện đã đi qua lâu lắm rồi, thế mà nhiều khi nghĩ lại hay
tưởng tới chúng ta cũng tham, cũng giận. Cái tham, cái giận đó đã có mặt và tạo
thành năng lượng chủng tử ở trong tâm thức của chúng ta, nó làm cho chúng ta bị
hệ lụy, làm cho chúng ta bị cản trở đối với sự tu tập.
Vì vậy, khi chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta phải làm cho các chủng tử
tâm hành như giận hờn, ganh tị, thù oán, trách móc trong tâm ta lắng xuống. Nó
phải lắng xuống nơi tâm thức của chúng ta. Sự lắng xuống ấy, phải được duy trì
trong từng hành hoạt của chúng ta. Khi trong từng bước đi của chúng ta vững
chãi, trong từng hành hoạt của chúng ta thảnh thơi là chứng tỏ những hạt giống
tham, giận, bồn chồn, lo âu, sợ hãi, ganh tị trong tâm thức của chúng ta đã lắng
xuống.
Chúng ta đừng nghĩ rằng, làm việc hăng say, năng nổ là không bệnh. Làm việc
hăng say, năng nổ, nhưng thiếu niệm như ý túc là bệnh. Ấy là bệnh của lật đật,
của loạn động, của chệch hướng và đánh mất mình. Làm việc nhanh hay chậm, đi
nhanh hay đi chậm không phải là vấn đề mà vấn đề là trong những động tác nhanh
hay chậm ấy, ta có duy trì được năng lượng chánh niệm, chánh định, chánh kiến
của chúng ta hay không.
Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên thực tập chánh niệm trong mọi
động tác sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Và chúng ta phải bước đi được những
bước đi vững chãi, hành hoạt thảnh thơi trong những bận rộn của cuộc đời, đó là
một phép lạ mà chúng ta thành tựu từ tâm ý.
Khi thực tập niệm như ý túc hay tâm như ý túc là chúng ta luôn
luôn nhớ đến lý tưởng tu tập của mình. Tại sao mình tu? Tại sao chúng ta phải
lên chùa để thực tập và pháp nào chúng ta đang thực tập? Chúng ta phải nhớ và
hành trì pháp ấy cho đến khi thuần thục.
Trong tiếng Phạn, tâm như ý túc có nghĩa là tâm của chúng ta luôn
an trú trong niệm, an trú trong định và an trú trong tuệ, khi đó chúng ta mới có
khả năng làm vắng bặt tất cả những chủng tử phiền não trong tâm thức của chúng
ta. Chúng ta tu tập là chúng ta đoạn trừ cái dẫn chúng ta đi đến bị sanh, bị
già, bị bệnh, bị chết. Chúng ta tu tập tức là làm cho tâm vắng lặng và duy trì
sự vắng lặng đó liên tục ở nơi tâm, khi nào chúng ta làm được điều đó là khi đó
và ngay đó chúng ta thành tựu được niệm như ý túc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đang tu tập, chúng ta có thể làm cho những hạt giống
rộn ràng đó vắng lặng được một lúc, nhưng rồi nó lại trồi lên, làm cho tâm của
chúng ta bận rộn trở lại. Chúng ta tu tập được ví như những người chiến sĩ xung
trận, chiến thắng đó, rồi thất trận đó, phút trước là anh hùng, thì phút sau là
kẻ bại trận, phút trước chúng ta rất là dễ thương, nhưng phút sau chúng ta không
còn là dễ thương nữa, bởi vì phút trước chúng ta duy trì được niệm như ý túc
trong tâm, nhưng phút sau tâm của chúng ta đã theo duyên trần mà chạy tán
loạn.
Cho nên, người tu là một chiến sĩ quán sát và ứng chiến với các chủng tử tâm
hành nơi tâm thức của mình bất cứ lúc nào và ở đâu.
Những hạt giống xấu nơi tâm thức của chúng ta rất lanh lợi và khôn khéo, hễ
chúng ta có ý thức về nó, thì nó trốn, ta không thể tìm ra dấu tích của nó đang
trú ẩn ở đâu, nhưng khi chúng ta lơi niệm là nó lại xuất hiện, nó đẩy chúng ta
đi ra khỏi pháp môn mà chúng ta đang hành trì. Vì vậy, chúng ta phải giữ chánh
niệm liên tục, giữ cho được tâm như ý túc, hễ chúng ta bị rơi niệm như ý tuc là
chúng ta mất tất cả, chúng ta phải bắt đầu thực tập lại ngay từ đầu.
Chúng ta giữ chánh niệm trước sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc
trần, rất là khó và khi thoát được những cái thô trần đó, thì chúng ta cũng rất
dễ bị mắc kẹt vào ý trần. Ý trần tức là những hình ảnh đẹp, xấu khi sáu quan
năng nhận thức của ta tiếp xúc đã đi qua rồi, nhưng ảnh tượng của chúng còn đọng
lại nơi tâm thức. Có vậy, nên nhiều khi chúng ta chỉ ngồi một mình thôi, mà cũng
nổi giận hay nổi thương quay cuồng. Người làm cho ta thương và ghét đã đi xa
rồi, sự kiện đã đi qua lâu rồi, nhưng cái giận, cái thương vẫn nổi lên nơi tâm
thức của mình mỗi khi có dịp nghĩ đến nó. Hiện tượng tâm lý đó ai cũng có, bởi
vì hạt giống đó đã nằm sẵn ở trong tâm thức của chúng ta từ vô thỉ kiếp và khi
đủ điều kiện, thì nó sinh khởi. Cho nên, chúng ta phải thường xuyên thực tập và
duy trì phép lạ thứ hai là niệm như ý túc.
- Tinh tấn như ý túc: Khi tất cả những chủng tử tâm hành của
chúng ta vắng lặng rồi, chúng ta phải liên tục duy trì nó, cho đến khi các chủng
tử thấp kém đó bị tiêu diệt, hoàn toàn không sinh khởi trở lại nữa. Giây nào,
phút nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào, đời nào chúng ta cũng thực tập
tinh chuyên như vậy, thì những chủng tử đã đẩy chúng ta đi tới cái bị sinh, bị
già, bị bệnh, bị chết sẽ hoàn toàn vắng lặng, khi đó chúng ta bắt đầu có tự do,
có chủ quyền.
Tấn như ý túc là chúng ta luôn luôn đi tới mà không đi lui. Trước đây, chúng
ta chỉ tu một ngày trong cả tháng, thì giờ đây chúng ta tu hai ngày, ba ngày,...
cho đến khi chúng ta tu cả tháng, cả năm, cả đời, cả kiếp, chẳng thà đi tới
chậm, chứ không phải mới bắt đầu tu, thì tu hăng lắm, nhưng sau đó, thì chậm
dần, rồi tắt lịm là điều không nên. Chỉ có tu mới chống được tai họa, chống được
cái khổ, nếu không tu, thì tai họa ập tới, cái khổ cứ chồng chất lên mãi ở trong
đời sống của chúng ta mà thôi.
Nên tinh tấn cũng là một phép lạ. Phép lạ, vì nó có khả năng làm cho điều ác
chấm dứt và nó có khả năng làm cho điều thiện phát sinh. Và vì nó có khả năng
làm cho khổ đau chấm dứt và an lạc phát sinh. Người ta hay nghĩ, phép lạ là phải
bay lên trời, thế thì ruồi, muỗi cũng bay được, chim chóc cũng bay được mà con
người bay không được, vậy con người thua xa ruồi muỗi hay sao?
Nên, phép lạ là ngày nào cũng làm việc trong chánh niệm, cũng ăn cơm trong
chánh niệm, ngày nào cũng đi thiền hành, ngày nào cũng lạy Phật, ngày nào cũng
niệm Phật và ngày nào cũng có khả năng làm cho tâm yên lắng, để trí tuệ phát
sinh, ngày nào cũng chia sẻ niềm vui đến với mọi người và ngày nào cũng có thể
lắng nghe được nỗi khổ của mọi người và có phương pháp giúp người bớt khổ, đó
mới là phép lạ thực sự, phép lạ của tâm như ý túc.
Chúng ta ngồi nghe mà tâm không phán xét, không phản ứng, nghe để hiểu gốc rễ
của vấn đề, chúng ta nghe được như thế là một phép lạ. Nếu không có thực tập
hạnh lắng nghe, chúng ta nghe người ta than vãn là chúng ta không có chịu nổi,
càng nghe chúng ta càng phiền muộn. Chúng ta thắp hương cúng Phật mỗi ngày, sáng
thắp như thế, chiều thắp như thế, tối ta cũng thắp như thế, mỗi ngày ta đều thắp
hương như thế hay mỗi ngày ta đều lạy Phật ba lạy tha thiết chí thành, chúng ta
làm riết như thế, đều đặn mỗi ngày như thế, chúng ta sẽ thành tựu được tấn như ý
túc.
Vì vậy, chúng ta phải luôn nhớ pháp hành của chúng ta, khi chúng
ta hành trì thường xuyên, thì các chủng tử tâm hành của chúng ta sẽ vắng lặng.
Chứ chúng ta mới nhiếp phục phiền não mà các phiền não trong ta chưa khuất phục
và chưa được thuần hóa, mà ta đã buông ra, thì nó trồi dậy và phản ứng lại ta
càng mạnh hơn. Nhiều người than, trước đây chưa tu thì mọi chuyện êm thắm, nay
tu rồi mà sao nhiều chuyện quá! Điều ấy không có gì lạ, cũng giống như lò xo, để
yên thì thôi, chứ đè vào rồi thả ra, thì nó sẽ bung ra mạnh. Chủng tử xấu nơi
tâm thức của chúng ta cũng vậy, để yên thì nó ít hung hãn, nhưng khi chúng ta
chọt vào mà chơi, thì sự hung hãn và phản ứng của nó tăng lên, vì vậy mà có
nhiều người tu tập bị sinh bệnh tật, khiến cái tâm của họ trở nên hung hãn và
khó tính. Nên, chúng ta phải thật sự nỗ lực thường xuyên, khiến điều xấu ác nơi
tâm không sinh, mà những điều tốt đẹp nơi tâm sinh khởi và tăng trưởng liên tục,
gọi là tấn như ý túc. Thành tựu tấn như ý túc là thành tựu phép lạ thứ ba.
- Tư như ý túc:
Tư như ý túc cũng còn gọi là tư duy thần túc, Quán thần túc, Tuệ
như ý túc. Tư như ý túc hay Tư duy thần túc, nghĩa là năng lực tư duy đối với
chân lý do đức Phật giảng dạy, mà sinh khởi thần túc đúng như ý, hay do an trú ở
trong thiền định mà quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên vận hành và hiện khởi của
những chủng tử tâm thức, mà thành tựu thần túc như ý, nên tư như ý túc cũng gọi
là tuệ như ý túc. Hoặc bằng vào thiền định mà nhiếp phục các chủng tử tâm hành,
khiến cho các chủng tử tâm hành hoàn toàn an tịnh, mà thành tựu thần túc, nên
gọi là định như ý túc.
Định như ý túc là thành tựu phép lạ của ý, do sự tư duy từ thiền
định đem lại. Sự tư duy từ thiền định là gì? Đó là đặt tâm vào một đối tượng duy
nhất, vào một đề mục duy nhất để tâm ý có sự định tĩnh từng phần và toàn phần.
Ta thiền tập mỗi ngày để tâm ta lúc nào và ở đâu cũng thuần thục ở trong định và
khiến ta có khả năng nhập định và xuất định một cách như ý. Ta thực tập Tư như ý
túc thuần thục, khiến ta khi trực diện với mọi hoàn cảnh thuận nghịch, thăng
trầm, khen chê, tụ tán, sống chết mà tâm ta an nhiên, hoàn toàn không bị dao
động thì đó chính là một phép lạ của tâm ý. Phép lạ ấy ta có thể thành tựu qua
sự thực tập thiền quán mỗi ngày. Mỗi ngày ta đi, hành động đi của ta phải được
thiết lập hoàn toàn trên nền tảng tư duy của tuệ giác; mỗi ngày ta đứng, hành
động đứng của ta cũng phải được thiết lập hoàn toàn trên nền tảng tư duy của tuệ
giác; và sự nằm, ngồi, nói, cười, ăn, uống, tiếp xúc, làm việc của chúng ta cũng
vậy, cũng phải hoàn toàn thiết lập trên nền tảng tư duy của tuệ giác. Tư duy của
tuệ giác là sự tư duy không mang chất liệu của ngã tính. Tư duy của tuệ giác là
sự tư duy hoàn toàn không liên hệ đến các phiền não bẩm sinh và phân biệt do học
tập hay do hoàn cảnh tôn giáo hoặc xã hội tác thành. Tư duy của tuệ giác là sự
tư duy đúng như tự thân của mọi sự hiện hữu. Mọi sự vật hiện hữu như thế nào,
thì ta phải chiêm nghiệm để thấy và biết nó đang hiện hữu đúng như thế ấy, đó
gọi là tư duy của tuệ giác.
Tư duy như thế là một phép lạ, giúp ta vượt thoát mọi vô minh,
phiền não, vượt thoát mọi khổ đau sinh tử, chứng Niết bàn và an lạc ngay trong
cuộc sống nầy.
Cho nên, Tứ như ý túc hay bốn phép lạ của ý, nếu ta thực tập miên
mật, thì mọi chướng ngại của phiền não đối với Niết bàn và mọi chướng ngại của
vô minh đối với tuệ giác đều được chấm dứt, ta có thể thành tựu đời sống giải
thoát và giác ngộ ngay trong cuộc sống nầy.