Người Tây
phương thường nói lời cảm ơn với nhau, giữa người cho và người nhận, giữa người
bán và người mua, người giúp và người được giúp. Trong tương quan hai chiều, ai
cũng cảm ơn đối phương cả. Đây là một trong những phép lịch sự xã giao tây
phương mà tôi thích.
Nói đến việc
cảm ơn của người Tây phương, không thể không nói đến Thanksgiving,
Lễ Tạ Ơn, là một lễ lớn có nguồn gốc tôn giáo, nhưng nay đã trở thành ngày lễ
phổ quát của dân gian, thế tục (secular holiday). Trong tôn giáo, người ta tạ ơn
thượng đế mà họ tôn thờ. Trong dân gian ngày nay, việc cảm ơn trong Lễ Tạ Ơn
được mở rộng đến với tất cả những đối tượng nào người ta mang ơn, do vậy, cảm ơn
cha mẹ, thầy giáo, sếp (chủ), người làm, nhân viên bưu điện, người dọn rác, v.v...
Ý nghĩa tạ
ơn, cảm ơn như thế, thật là phù hợp với giáo lý Tứ Ân đã có từ lâu trong truyền
thống Phật giáo. Tứ Ân hay Tứ Trọng Ân (bốn ơn nặng cần phải báo đền) được nói
đến trong nhiều kinh điển Phật giáo. Đôi chỗ trình bày bốn ơn này khác nhau tùy
theo khuynh hướng, thời đại và quốc độ, nhưng phổ quát nhất, xin được ra khỏi
giới hạn thiền môn để trình bày như sau:
1)
Ơn cha mẹ sinh dưỡng, gia giáo,
2)
Ơn thầy dạy, học đường, giáo dục lễ nghĩa và kiến thức,
3)
Ơn quốc gia, mà đại diện là chính quyền, bảo vệ giang sơn, giữ gìn an
ninh xã hội, tổ chức và thi hành các luật lệ chung để tạo đời sống trật tự, bình đẳng và ấm
no cho quốc dân,
4)
Ơn chúng sanh, ơn của tất cả muôn loài.
Đối với hai
ơn đầu, cha mẹ và thầy dạy, người con và người học trò nào cũng đều rõ, ở đây
không cần bàn thêm.
Với ơn thứ ba
là quốc gia mà trực tiếp là chính quyền từ trung ương đến hạ tầng, mỗi quốc dân
cần nhận rõ nghĩa vụ của mình nhằm góp phần hoàn chỉnh đời sống và quyền lợi
chung. Chính quyền của thời đại ngày nay không phải là chính quyền do “ông trời”
nào sắp xếp, đặc cách cho làm “thiên tử” (ông trời con), mà do ý nguyện của số
đông, của toàn dân. Chính quyền tốt thì ủng hộ, góp phần xây dựng, làm cho thêm
cường thịnh; chính quyền xấu thì góp ý sửa sai, điều chỉnh, có khi cần phải làm
cách mạng để lật đổ, thiết lập một chính quyền tốt đẹp hoàn hảo hơn. Bởi vì mục
đích của chính quyền là để an dân. Dân không an, xã tắc không ổn định, chính
quyền ấy không có lý do tồn tại và bám giữ quyền bính. Suy ra, được sống yên
bình trong quốc gia nào phải nhớ ơn quốc gia đó. Những người Việt tị nạn cộng
sản, đã định cư trên các quốc gia tự do, dân chủ, phải nhớ ơn quốc gia đón nhận
và tạo điều kiện cho đời sống ổn định, bình an, thăng tiến của mình. Sau hơn ba
mươi năm sống lưu vong , hầu hết người Việt tị nạn đều trở thành công dân, có
quốc tịch của các quốc gia mà tâm thức ban đầu thường nghĩ là đất “tạm dung.”
Thế thì, là quốc dân của quốc gia mới, không thể phụ ơn mà phải báo ơn bằng cách
thi hành các nghĩa vụ công dân, đóng góp tâm trí và tài sức của mình vào cho sự
phồn thịnh an vui của quốc gia ấy; nếu không tích cực đóng góp được thì cũng
không làm điều gì trái ngược với quyền lợi và nguyện vọng chung của toàn dân
trong quốc gia mà mình đang là công dân chính thức. Chính quyền không phải là
quốc gia, không phải là tổ quốc. Chính quyền làm tốt thì mang ơn, cảm ơn; chính
quyền làm sai làm xấu thì lên tiếng và bày tỏ thái độ phản đối để điều chỉnh.
Góp phần làm cho đẹp cho tốt hơn, đó là nhớ ơn, báo ơn quốc gia, chứ không phải
nhắm mắt nhắm mũi cảm ơn những kẻ cầm quyền bán nước, hại dân.
Bây giờ hãy
nói về ơn thứ tư, là ơn chúng sanh. Đừng nghĩ chúng sanh ở đây là hàng sinh linh
luân hồi đối với Phật và bồ-tát giác ngộ. Chúng sinh ở đây bao gồm tất cả loài
hữu tình và vô tình. Một định nghĩa khá phổ thông của nhà Phật là “giả
chúng duyên nhi sanh, cố viết chúng sanh,” có nghĩa là cái gì
vay mượn các yếu tố/phần tử khác để được sinh ra thì cái đó là chúng sanh. Hoa
không tự nó sinh ra mà cần có hạt giống, đất, nước, phân bón, không khí, ánh
nắng. Vậy hoa là chúng sanh. Người không tự mình sinh ra mà cần có sự kết hợp
của thần thức, tinh huyết của cha mẹ, cùng với tứ đại (các hợp chất đất, nước,
không khí-gió, nhiệt độ-lửa). Vậy người là chúng sanh. Tứ đại (đất, nước, gió,
lửa) cũng không tự sinh mà phải nhờ các nguyên tử đặc trưng của mỗi chất kết hợp
nên (âm tử, dương tử, trung hòa tử - electron, proton, neutron), vậy tứ đại cũng
là chúng sanh. Các loài muông thú cho đến các loài vô tình như đất, đá, cỏ cây,
v.v... cũng đều nhờ đến nhiều yếu tố nhân duyên khác mà sinh ra. Tóm lại, tất cả
những gì hiện hữu trên cuộc đời, trong vũ trụ, hữu hình hay vô hình, hữu tình
hay vô tình, đều là chúng sanh.
Ơn chúng sanh
là ơn của toàn thể vũ trụ, vạn hữu. Cho nên, ơn cha mẹ, ơn thầy dạy, ơn quốc
gia, là nói cho cụ thể, chứ ba ơn đó đều nằm trong ơn chúng sanh. Tổ tiên, ông
bà sinh ra cha mẹ phải nhờ tất cả những yếu tố nhân duyên chung quanh, trực tiếp
và gián tiếp kết hợp, tác động. Thầy dạy, quốc gia cũng thế. Không có ai, không
có cái gì tự sinh ra. Tất cả đều phụ thuộc vào nhau, nương vào nhau, tác hưởng
với nhau mà hình thành mọi sự, mọi vật, mọi loài trên đời. Triết lý nhà Phật gọi
đó là tương sinh, cộng sinh.
Vậy, nghiệm
xét thật sâu mối tương quan chằng chịt giữa con người và chúng sanh, mỗi người
chúng ta đứng trước cuộc đời, phải trân trọng cảm ơn tất cả. Chẳng có ai, chẳng
có vật gì trên đời này mà không ban ơn đến chúng ta. Nâng một ly nước lên uống,
chúng ta thấy nước, người mang nước đến, người sản xuất cái ly, ông bà cha mẹ
của những người này, những người tạo ra phương tiện chuyên chở để mang nước đến,
những người tạo ra máy lọc nước, ông bà cha mẹ của những người này, thầy dạy của
những người này, những người tạo ra cơm ăn áo mặc cho tất cả những người kể
trên... Nghiệm càng sâu, càng thấy rõ sự liên hệ bất phân giữa mình với thế
giới, với muôn loài. Cho nên, cảm ơn là cảm ơn tất cả. Chúng ta luôn là kẻ thọ
ơn của thế giới, của chúng sanh. Với ý niệm đó, đừng bao giờ cho rằng mình là kẻ
ban ơn, dù mình đã cho ra một thứ gì. Người xưa thường nói, “Thi ân bất ký,
thọ ân bất vong,” tức là khi ban ơn thì đừng nên nhớ, khi chịu ơn thì đừng
nên quên. Bởi vì trong mạng lưới hỗ tương chằng chịt giữa mỗi cá nhân với toàn
thể thế giới, chúng ta thực sự chẳng ban ơn cho ai thứ gì cả. Tất cả đều là sự
trao đổi, hỗ trợ, hỗ tương. Hãy tự cho mình là kẻ thọ nhận ơn lành của thế giới,
của tất cả chúng sanh. Đó là thái độ khiêm cung, hiểu biết của con người trong
thời đại mới, thời đại mà người ta nhận thức rằng hành tinh này chỉ là một phần
tử thật nhỏ của thiên hà vũ trụ bao la, thời đại mà người ta nhìn ra tính cách
tương quan, tương hệ của anh em nhân loại càng lúc càng rõ ràng hơn.
Đó là nhìn
cái ơn trong sự thuận lý. Chứ ngay cả trường hợp một cá nhân hay nhóm người nào
cố tình làm tổn hại đến mình, dĩ nhiên chúng ta cần có giải pháp đối phó để vượt
qua hoàn cảnh nghịch ý đó, nhưng trong lòng cũng nên tỏ niềm biết ơn. Biết ơn kẻ
xấu đã cho mình bài học của sự luyện tâm. Nhờ họ, mình hiểu được sự nhẫn nại,
lòng khoan dung và đức trầm tĩnh của mình. Không có sự nghịch ý, sẽ không bao
giờ chúng ta hiểu được tâm chúng ta cả.
Để cảm ơn tất
cả chúng sanh, chúng ta tập sống đơn giản, hòa bình, nhân ái, đừng cố tình hủy
hoại và lạm dụng tài nguyên của thế giới, đừng làm ô nhiễm môi trường sống bằng
sự ích kỷ, thù hận, tham lam cá nhân, những yếu tố dẫn đến chiến tranh, chết
chóc, khủng bố, đói nghèo. Sự phung phí và thờ ơ của chúng ta luôn tác hại đến
kẻ khác, chúng sanh khác.
Tóm lại,
không cần phải đợi đến một ngày lễ lớn mỗi năm để nhớ ơn hay báo ơn. Chúng ta có
thể nói lời cảm ơn với tất cả những ai ta tiếp xúc hàng ngày. Chẳng hạn, khi cảm
ơn cha mẹ, cảm ơn người bán hàng hay người mua hàng, chúng ta đồng lúc liên
tưởng đến tất cả nhân duyên nào liên hệ với những người đó. Trong liên tưởng như
vậy, chúng ta luôn có trong ta một thế giới thân thuộc, gần gũi, đầy ơn lành của
muôn loài chúng sanh. Và như vậy, một lời cảm ơn cha mẹ, một lời cảm ơn người
bán hàng hay mua hàng, chúng ta cảm ơn tất cả.
Vĩnh Hảo
No comments :
Post a Comment