Cuộc đời của Đức Phật là
nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nhà nghiên cứu Phật học ở các thời kỳ. Trong
những phương cách nghiên cứu và diễn đạt về cuộc đời Đức Phật, có hai xu hướng
cơ bản: thần thoại và phi thần thoại hóa. Xu hướng phi thần thoại hóa về lịch
sử Đức Phật, đã được ngài Vasubandhu quan tâm từ rất sớm(1). Trong
thời cận đại, xu hướng phi thần thoại này đã được nhiều nhà nghiên cứu Phật học
tiếp nối, và thể hiện tiêu biểu ở đây, là học giả Schumann với tác phẩm Đức
Phật lịch sử(2).
Trong một chừng mực nhất
định, tác phẩm này đã cống hiến cho giới nghiên cứu Phật học nhiều quan điểm
mới mẻ, táo bạo, gợi mở nhiều vấn đề có ý nghĩa thiết thực về cuộc đời của Đức
Phật nói chung. Mặc dù vậy, trong tác phẩm nêu trên không phải không có những
quan điểm mà tác giả dường như đã đi quá xa so với sự thật lịch sử. Ở đây, theo
khảo sát của chúng tôi, các quan điểm liên quan đến sự kiện Đản sanh và nhập
Niết-bàn của Đức Phật, được thể hiện trong tác phẩm Đức Phật lịch sử, là
hai vấn đề cần được nghiêm túc thảo luận.
Luận
điểm về bối cảnh Thái tử Siddhārtha đản sanh

Đức Phật đản sinh, phong cách Gandhara, tại Bảo tàng nghệ thuật Freer.
1- Quan điểm của tác giả
Trong tác phẩm Đức Phật lịch sử,
đoạn mô tả về sự kiện Đản sanh của Thái tử Siddhārtha, được tác giả Schumann
viết:
Như trong Nidānakathā (Duyên khởi
luận), phần giới thiệu truyện Tiền thân hay Bổn sanh (Jātakas) kể câu chuyện
thần thoại về Hoàng hậu Māyā đã bốn mươi tuổi, ngay trước thời kỳ lâm sản đã
lên đường trở về quê song thân ở Devadaha để sinh con và nhờ mẫu
thân Yasodharā bảo dưỡng. Cuộc hành trình bằng xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc
lư trên những con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm sản xảy ra sớm
trước khi về đến Devadaha. Gần làng Lumbinī (Lâm Tỳ Ni, nay là Rumindai) giữa
trời không có nhà cửa che chở, chỉ có được tàng cây sāla (tên khoa
học Shorea Robusta) và cũng không có thầy thuốc nào lo việc hộ sản, Hoàng
tử ấu nhi Siddhārtha sinh ra đời khoảng tháng năm, năm 563 trước CN. (H.W Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan,
dịch, NXB. TP.HCM, 2000. tr.40)(3).
2- Trao đổi của chúng tôi
Thứ nhất, căn cứ vào tài liệu Nidānakathā
mà tác giả đã dẫn, chúng tôi không hề tìm thấy bất kỳ đoạn văn nào đề cập
đến Hoàng hậu Māyā đã bốn mươi tuổi. Khảo sát các kinh văn liên quan đến
cuộc đời của Đức Phật trong năm bộ Nikāya, cũng không thấy đề cập đến tuổi tác
của Hoàng hậu Māyā khi mang thai Thái tử Siddhārtha. Theo chúng tôi, câu chuyện
về Hoàng hậu Māyā mang thai thái tử khi
đã 40 tuổi hoặc hơn nữa, chỉ xuất hiện trong các kinh có niên đại xuất hiện khá
muộn cũng như các bộ luận giải về sau(4).
Thứ hai, chuyến hành trình về quê
ngoại để lâm sản của một vị hoàng hậu được mô tả khá ảm đạm dưới ngòi bút của
Schumann: Cuộc hành trình bằng xe ngựa hay xe bò cọc cạch lắc lư trên những
con đường đất bụi nóng bức khiến cho việc lâm sản xảy ra sớm trước khi về đến
Devadaha. Đọc kỹ lại văn bản Nidānakathā mà Schumann đã sử dụng,
chúng tôi phát hiện thêm thông tin: sau khi hoàng hậu dự cảm về ngày sinh, nên
đã xin phép Vua Suddhodana về quê ngoại, thì nhà vua đã cho sửa sang bằng phẳng
con đường từ Kapilavatthu đến Devadaha(5). Trong thực
tế, việc chỉnh sửa hơn 20km đường giao thông để tiện việc đi lại cũng là điều
không quá khó đối với năng lực của một vị vua. Không những thế, cũng theo văn
bản Nidānakathā, nhà vua còn chuẩn bị nước uống, trang hoàng cờ phướn và
biểu ngữ dọc hai bên đường. Đặc biệt trong chuyến trở về này, hoàng hậu yên
vị trong một cái kiệu vàng do một ngàn người thay nhau khiêng (And
seating the queen in a golden palanquin carried by a thousand attendants)(6). Cần phải thấy, sự đi lại bằng kiệu do người khác
khiêng, là một sự kiện có thực trong lịch sử các triều đại phong kiến ở nhiều
nước phương Đông. Ở đây, sự chăm sóc của Vua Suddhodana đối với sản phụ đặc
biệt là Hoàng hậu Māyā, là điều hoàn toàn có thể diễn ra trong thực tế.
Việc Hoàng hậu Māyā đản sinh Thái tử Siddhārtha tại
vườn Lumbinī là sự kết hợp của nhiều yếu tố(7). Ảnh hưởng từ việc đi lại chỉ là
một trong những yếu tố nhưng không phải là yếu tố quyết định. Do vậy, cách suy
diễn về việc vận chuyển một hoàng hậu sắp lâm bồn bằng xe bò hay xe ngựa theo
tác giả Schumann đã dẫn đến đến việc lâm bồn xảy ra sớm hơn dự kiến, là điều
không đúng với tư liệu mà ông đã dẫn (Nidānakathā), và không hợp lý
trong sự sắp sếp, lo toan của một vị vua.
Thứ ba, Schumann mô tả thái tử ra
đời trong bối cảnh không có thầy thuốc nào lo việc hộ sản (without
medical assistance)(8) cũng là một
suy đoán phi lý. Cần phải thấy, vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch, trình độ y
khoa tại Ấn Độ đã tiến bộ đến một mức độ đáng kể. Tư liệu luật tạng ghi lại
quan ngự y Jivaka không những có khả năng chữa được một số bệnh ngoại khoa cho
một số vương quan(9), mà còn thực
hiện thành công vài trường hợp phẫu thuật đặc biệt(10). Kinh nghiệm y khoa và các thủ thuật chữa bệnh ghi nhiều
dấu ấn trong kinh, luật Phật giáo thuộc văn hệ Pāli(11). Ngay như một người phụ nữ bình thường, trước lúc sinh
con đã biết nhờ chồng chuẩn bị cho mình những dược liệu cần thiết, được ghi lại
trong kinh Phật tự thuyết,(12) thì không lý nào hoàng hậu của một nước, lại không có
được một sự trợ giúp y tế cần thiết trong lúc lâm bồn.
Hơn thế nữa, về phương diện tư liệu khảo cổ, tám bức
phù điêu thuộc Phật giáo Gandhara có niên đại từ thế kỷ II-III TL, đã mô tả cận
cảnh và chi tiết bối cảnh thái tử đản sanh tại vườn Lumbini. Theo đó, vào thời
điểm Hoàng hậu Maya lâm bồn, thì ngoài di mẫu Siddhartha là bà Mahaprajapati
luôn túc trực bên cạnh, còn có rất nhiều thành viên của đoàn tùy tùng luôn vây
quanh(13).
Tất cả những dữ liệu đó đã minh
chứng rằng, trong tầm vóc của một vị vua (Rāja) như Vua Suddhodana, thì
điều kiện chăm sóc y tế cho hoàng hậu trong chuyến trở về quê ngoại lâm bồn, là
điều hoàn toàn nằm trong khả năng. Với Vua Suddhodana, mọi kế hoạch chuẩn bị
cho sự ra đời của hoàng nhi nối dõi, là cả một chuỗi vấn đề mang tính hệ trọng.
Trong dòng sự kiện đó, việc cử theo Hoàng hậu Māyā một đoàn tùy tùng đông đảo (he
sent her away with a great retinue)(14),
mà không có thầy thuốc nào lo việc hộ sản là điều hoàn toàn không đúng
với những toan tính của Vua Suddhodana.
Như vậy, từ ba điểm chúng tôi vừa
trình bày, đã cho thấy rằng, các dữ liệu xoay quanh sự kiện đản sanh của Thái
tử Siddhārtha theo mô tả của Schumann trong tác phẩm Đức Phật lịch sử,
là những suy diễn không phù hợp với thực tế. Trong nguyên tác của đoạn văn
trên, Schumann chỉ căn cứ vào tài liệu Nidānakathā mà không dẫn thêm bất
kỳ nguồn tài liệu nào làm luận cứ. Vì vậy, sự phóng tác của ông về sự kiện
Hoàng hậu Māyā đản sanh Thái tử Siddhārtha, không những không đúng với tài liệu
mà ông sử dụng, mà còn không phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.
Luận
điểm về bối cảnh Đức Phật nhập Niết-bàn

Đức Phật nhập Niết bàn, nghệ thuật Gandhara.
Với người con Phật, việc Đức Phật
nhập Niết-bàn là một sự kiện thống thiết và thiêng liêng. Schumann đã mô tả sự
kiện đó theo cách nghĩ đặc thù của chính ông ta.
1- Quan điểm của tác giả
Ðoạn văn miêu tả trong kinh điển
về lễ hỏa táng mang đầy ấn tượng một quang cảnh hoàn toàn hỗn độn. Trong khi
nhóm Tăng chúng ít ỏi chỉ gồm có các Tỳ-kheo Ānanda, Cundaka, Anuruddha,
Upavāna, và có thể thêm một vài người nữa, đã nhận được huấn thị của Đức Phật
để mọi việc tổ chức tang lễ cho các đệ tử tại gia, tuy nhiên, đám cư sĩ này rõ
ràng không đông lắm tại Kusinārā, và không ai cảm thấy thực sự có trách nhiệm
cả. Các dấu hiệu thương tiếc theo hình thức vòng hoa và hương liệu quả thực rất
dồi dào, nhưng hình như không người nào sẵn sàng chịu phí tổn về số củi dùng
cho giàn hỏa táng. Lễ hỏa táng phải được đình hoãn lại từ một ngày đến ngày hôm
sau, chuyện kể nó còn kéo dài suốt cả tuần.
(H.W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan, dịch, NXB. TP.HCM,
2000. tr.576)(15).
2- Trao đổi của chúng tôi
Trong đoạn văn trên của Schumann,
có nhiều vấn đề cần phải trao đổi, tuy nhiên, chúng tôi tập trung vào hai vấn
đề chính. Thứ nhất, đó là số lượng Tỳ-kheo có mặt trong khi Đức Phật nhập diệt,
và thứ hai là trách nhiệm của hàng cư sĩ trong lễ hỏa táng.
a- Về vấn đề số lượng Tăng chúng
Theo cách diễn đạt của Schumann,
thì số lượng Tỳ-kheo có mặt trong khi Đức Phật viên tịch hết sức ít ỏi, chỉ vài
mươi vị. Đây là một quan điểm sai lầm vì nhiều lẽ.
Thứ nhất, trong chuyến hành hương cuối cùng,
khi Đức Phật đến Pāvā, một địa điểm cách Kusinārā khoảng 15km thì lúc ấy Tăng
chúng có khoảng 500 vị. Đoạn kinh dẫn khởi bài kinh Phúng tụng đã chứng
tỏ điều này: Một thời Thế Tôn du hành giữa dân tộc Mallā cùng với đại chúng
Tỳ-kheo khoảng năm trăm vị. Ngài đến tại thành của dân chúng Māllā tên là Pāvā
và trú tại đấy. Thế Tôn trú tại Pāvā trong rừng xoài của thợ rèn Cunda(16). Đây là cơ sở
thứ nhất chứng minh rằng, trong chặng cuối của hành trình xuôi về Kusinārā,
Tăng chúng theo Ngài rất đông đảo.
Thứ hai, nếu như tư liệu của bài
kinh Phúng tụng chưa chỉ ra chính xác số lượng Tăng chúng có mặt tại
thời điểm Đức Phật viên tịch, thì kinh Tăng chi đã làm sáng tỏ điều ấy.
Kinh ghi:
1. Một thời Thế Tôn trú ở
Kusinārā, tại Upavattana, trong rừng cây Sālā của dân chúng Māllā, giữa những
cây Sālā song thọ, trong khi Ngài sắp sửa nhập Niết-bàn. Tại đấy, Thế Tôn gọi
các Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỳ-kheo, nếu có một
Tỳ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con
đường thực hành, thời này các Tỳ-kheo, các thầy hãy hỏi đi, sau chớ có hối
tiếc: “Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta, mà chúng ta không tận mặt hỏi Thế
Tôn”.
Khi được nói vậy, các Tỳ-kheo ấy
giữ im lặng.…
5. Rồi Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, thật
hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng, trong chúng Tỳ-kheo này, không có một
Tỳ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay
con đường thực hành.
- Này Ānanda, thầy có lòng tín
thành nên nói vậy. Nhưng ở đây, này Ānanda, Như Lai biết rằng trong chúng
Tỳ-kheo này, không có một Tỳ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật,
Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con đường thực hành. Này Ānanda, trong 500 Tỳ-kheo
này, Tỳ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, chắc
chắn hướng đến Chánh giác(17).
Như vậy, trong đoạn kinh trên,
chính bản thân Đức Phật đã xác quyết có năm trăm vị Tỳ-kheo có mặt trong khi
Ngài viên tịch. Với số lượng này, không thể gọi là ít ỏi, theo như cách suy
diễn không có cơ sở của Schumann.
b- Về trách nhiệm của hàng cư sĩ
trong lễ hỏa táng
Trong những lời dặn dò cuối cùng
của Đức Phật, Ngài đã chỉ dạy hàng cư sĩ lo việc hỏa táng thân xá-lợi của Như
Lai(18). Đây cũng là điều mà tác giả
Schumann nhận ra, nhưng ông đã diễn đạt không đúng với chứng cứ mà kinh điển đã
ghi lại.
Trước hết, mặc dù tín đồ Phật giáo
chưa phát triển mạnh mẽ tại Kusinārā nhưng không vì vậy mà có thể cho rằng,
không có những cư sĩ thuần thành, đầy trách nhiệm, sẵn lòng phát nguyện dấn
thân phục vụ tang lễ. Câu nói, không ai cảm thấy thực sự có trách nhiệm cả
của Schumann hoàn toàn sai sự thực, đối với những nỗ lực rất đáng được trân
trọng của dân chúng Māllā.
Theo kinh Trường bộ, khi hay tin
Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, dân Māllā cùng với con trai, con gái và vợ, khi
nghe Tôn giả Ānanda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ não, kẻ thì
khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì
khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: “Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm”.
Rồi dân Māllā ở Kusinārā ra lệnh
cho những người làm: “Các người hãy gom góp hương, tràng hoa và tất cả nhạc khí
ở Kusinārā”.
Rồi dân Kusinārā đem theo hương,
tràng hoa, tất cả nhạc khí và năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng
Sālā của dòng họ Māllā, đến tại chỗ thân xá-lợi của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả
ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá-lợi Thế Tôn với các điệu
múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải và tràng hoa
Mandala.
Với những biểu hiện chí thành đó của dân chúng
Māllā, làm sao có thể nói họ là những người không có trách nhiệm trước sự viên
tịch của Đức Thế Tôn?
Không những thế, ngoài số lượng
đông đảo dân chúng Māllā đang nỗ lực hỗ trợ tang lễ bằng khả năng có thể, thì
một đại diện cho những đệ tử tại gia tiêu biểu của Đức Phật, cũng đang hiện
diện tại Kusinārā, đó là Bà-la-môn Dona. Theo chú giải của ngài Budhaghosa, một
trong những lý do để Đức Phật chọn Kusinārā làm nơi viên tịch, do vì Bà-la-môn
Dona đang có mặt tại nơi này.
Theo kinh Tăng chi ghi lại,
kể từ khi phát hiện dấu chân đặc thù của Đức Phật trên con đường từ Ukkatthā và
Setabbya làm nhân duyên ban đầu để Bà-la-môn Dona quy ngưỡng Tam bảo(19). Không lâu sau đó, Bà-la-môn Dona phát tâm quy y Tam bảo
và chính thức trở thành một vị đệ tử tại gia(20).
Theo tư liệu từ kinh Trường bộ, Dona là
vị thương gia có khả năng thuyết phục và ngăn ngừa cuộc va chạm quân sự giữa
tám nước, và là người đã đứng ra phân chia xá-lợi của Đức Phật sau khi Ngài
viên tịch(21), điều đó đã chứng tỏ uy tín cũng
như năng lực của cư sĩ Dona. Câu nói: hình như không người nào sẵn sàng chịu
phí tổn về số củi dùng cho giàn hỏa táng tuy chưa phải là sự khẳng định
chắc chắn của Schumann, nhưng qua đó thể hiện cho một lối suy diễn thiếu căn
cứ.
Cần phải thấy rằng, với một đất
nước có truyền thống hỏa táng như Ấn Độ, với khả năng tài chính của một thương
gia như Bà-la-môn Dona, với sự mến mộ của số đông dân chúng Māllā, thì việc sắm
sửa những vật dụng chuyên dùng cho lễ hỏa táng, không phải là điều quá bận tâm
như tác giả Schumann đã nghĩ.
Kết luận
Hai sự kiện quan trọng trong cuộc
đời Đức Phật, đó là sự kiện Đản sinh và nhập Niết-bàn. Đối với hai sự kiện
trọng đại này, tác giả Schumann đã có một cách nhìn thiếu nghiêm túc. Điều đáng
chú ý, khi đưa ra những quan điểm của riêng mình như hai vấn đề mà bài viết đã
nêu ra, tác giả Schumann đã không chỉ ra được một nguồn tài liệu khả tín làm
luận cứ. Nơi đây, với những cứ liệu có cơ sở kinh điển mà mà chúng tôi minh
chứng, đã phần nào cho thấy tác phẩm Đức Phật lịch sử chứa đựng nhiều
quan điểm mang tính tư biện. Dĩ nhiên, sẽ rất khó nhận được sự phản hồi của đại
diện tác giả từ những phản biện này, do vậy, với phiên bản tiếng Việt của tác
phẩm Đức Phật lịch sử, chúng tôi mong rằng, nên chăng cần được cân nhắc
biên tập trước khi ấn hành trong những lần tái bản kế tiếp.
Chú thích
(1) 大 正 新
脩 大 藏 經 第 二 十 九 冊 No. 1558, 阿 毘 達 磨 俱 舍 論 卷 第 九, 分 別 世 品 第 三 之 二. Theo tư
liệu, trong sự kiện Đản sanh của Đức Phật, ngài Vasubandhu phản bác câu chuyện
về voi trắng sáu ngà khai hông bên hữu chui vào, trong giấc mơ của Hoàng hậu
Māyā . Theo ngài, Bồ-tát đã thoát ly thân súc sinh từ lâu (菩 薩 久
捨 傍 生 趣 故). Theo ngài Vasubandhu, câu chuyện về voi trắng
sáu ngà chỉ là dấu hiệu của một điềm lành.
(2) H.W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch, NXB.
TP.HCM, 2000.
(3) As the Nidānakathā, the introductory narrative to the book of
Jātaka (birth-stories) relates in legendary form, Māyā, who was already forty
years old, had set out shortly before the birth of her child, to go to the home
of her parents in Devadaha, in order to have the child there supported by her
mother Yasodharā. The journey in bumpy horse-or ox-cart over hot and dusty
roads brought the birth on before Devadaha was reached. Near the village of Lumbinī (now Rummindai), in the open air
with no protection but that provided by a Sāl-tree (Shorea Robusta), and
without medical assistance, the young Siddhārtha was born in May of the year
563 BC. (H.W. Schumann, The Historical Buddha - The Time, Life and Teachings
of the Founder of Buddhism, New
Delhi: Motilal Banarsidass, 2004, p.6-8.)
(4) Theo Từ điển Phật học nhân xưng Pāli, ấn bản điện tử, khi hoàng
hậu vào khoảng 40 đến 50 tuổi thì mới đản sinh Thái tử Siddhārtha (Vibha.278).
(5) T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories, New Delhi: Asian Educational Service, 1999, p.150.
(6) Ibid.
(7) Theo quan điểm của chúng
tôi, một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến việc lâm bồn ngoài dự kiến, đó
là Hoàng hậu Māyā đã mang thai đến tháng thứ 10. Kinh Đại bổn, thuộc Trường
bộ, kinh Hi hữu vị tằng hữu pháp, thuộc Trung bộ và văn bản Nidānakathā
đều thống nhất cho rằng, Hoàng hậu Māyā mang thai thái tử đúng 10 tháng mới
sinh. Theo nghiên cứu của ngành sản khoa, sau tuần lễ thứ 42 của thai kỳ, thai
bào phát triển rất khó dự đoán.
(8) H.W. Schumann, The Historical Buddha - The
Time, Life and Teachings of the Founder of Buddhism, New Delhi: Motilal Banarsidass, 2004, p.8
(9) Maha Vagga, chương y phục, thứ tám, tụng phẩm
thứ nhất, chữa bệnh cho vua Seniya Bimbisāra xứ Magadhā, đoạn 131.
(10) Maha Vagga, chương Y phục, thứ tám, tụng phẩm
thứ nhất, Chữa bệnh cho nhà đại phú ở thành Rajagahā, đoạn 132.
(11) Kinh Trung bộ, kinh Magandhiya,
số 75; MahaVagga, chương Dược phẩm thứ sáu, tụng phẩm thứ nhì, Cấm mổ xẻ ở
chỗ kín, đoạn 57.
(12) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật tự thuyết,
chương hai, phẩm Mucalinda, Ud.13.
(13) Ihsan Ali - Muhammad Naeem Qazi, Gandharan
Sculptures in the Peshawar
Museum (Life Story of
Buddha). Pakistan:
Hazara University Mansehra NWFP, 2008, p.52-56. Tám bức phù điêu mang số hiệu:
PM_02729; PM_02725; PM_02727; PM_01960; PM_01922; PM_00416; PM_00723; PM_01207.
(14) T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories, New Delhi: Asian Educational Service, 1999, p.153.
(15) The Canonical account of
the cremation conveys the impression of utter confusion. As the little group of
monks, consisting of Ānanda, Cundaka, Anurudha, Upavāna and possibly one or two
others, had received instructions from the Buddha to leave his funeral
arrangements to his lay followers who, however, were apparently not numerous in
Kusinārā, nobody felt really responsible. Tokens of mourning in the flowers and
incense came in plenty, but it seems no one was prepared to bear the cost of
the wood for the pyre. The cremation was postponed from one day to the next, it
is said for a weeks. (H.W. Schumann, The
Historical Buddha - The Time, Life and Teachings of the Founder of Buddhism,
New Delhi:
Motilal Banarsidass, 2004, p.251).
(16) Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, số 33.
(17) Kinh Tăng chi, chương bốn pháp, phẩm
Không hý luận, kinh Kusinārā.
(18) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, Tụng phẩm V NXB. Tôn giáo, 2013,
tr.329.
(19) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm
Bánh xe, kinh Tùy chuyển thế giới.
(20) Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm
Bà-la-môn, kinh Bà-la-môn Dona. Các bản kinh Bắc truyền liên quan đều
xác tín vị Bà-la-môn này thâm tín Tam bảo.
(21) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát
Niết-bàn, tụng phẩm VI.
Chúc Phú
No comments :
Post a Comment