1.
Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"
Pháp môn mà ta tu học là pháp Vô-thượng, là Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở trong tâm.
Xuất gia tu hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này thì trí huệ chưa khai mở; cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được.
Tu đạo là vì giải thoát, không bị chìm đắm trong luân hồi. Coi bạn có thể tu đến chỗ Ngũ Uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều "không" chăng?
Tu đạo thì cần trừ tham, sân, si; đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong sạch.
Từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà mình tạo ra thì đầy ngập như núi cao. Ngày nay các bạn xuất gia tu hành thì cần phải tiêu trừ nghiệp chướng của mình đi. Nếu không khéo tu hành, mà ngược lại, tạo tội nghiệp, thì núi cao nghiệp chướng kia ngày càng đắp cao thêm; vĩnh viễn bạn không còn cách gì thoát khỏi vòng sanh tử.
2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu
A. Tham, Sân, Si
Hễ bạn khởi tâm động niệm thì tự mình đã sai lầm rồi đó, là bởi do cái "ngã", cái "tôi" tồn tại. Ðây là niệm rất vi tế; chỉ do niệm này bắt đầu khởi dậy, mà tất cả ý nghĩ khác dấy lên.
Cứ chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn luôn đúng, luôn tốt; nghe người ta nói mình tốt thì vui, thì thích; bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, thì rầu; đó đều là nhân-ngã tướng- thấy thật có mình, có người. Khi tu hành mà còn có tướng nhân-ngã như thế thì không thể yên ổn tu hành. Khi còn ngã-tướng thì làm gì cũng thấy có cái "ta", coi cái "ta" này trọng lắm, phân định ranh giới "ta" và "bọn họ" rõ ràng lắm. Như vậy thì chẳng có lợi gì cho việc tu, mà ngày ngày lại do đó phát sinh phiền não.
Nếu bạn đắm trước, chấp chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, chạm xúc, và ý tưởng) thì trí huệ không thể khai phát đặng.
Tai các bạn lúc nào cũng thích nghe, nghe xem có ai nói xấu mình chăng; mắt lúc nào cũng thích nhìn hình sắc đẹp đẽ; đó là những thứ chẳng lợi cho việc tu.
Không trừ sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai trí huệ đâu!
Chỉ cần tham một thứ gì đó là đủ khiến ta trở lại vòng luân hồi rồi!
Tham một thứ thì nhiều thêm một thứ. Ít đi một vọng niệm thì bớt đi một chút nghiệp, lại tăng thêm một phần giải thoát.
Không nên nổi lòng tức giận, dù nhỏ như sợi lông; nếu không mình chẳng thể nhập đạo đặng.
Nếu bạn vẫn còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, bạn bè, đồng sự, bà con..., thì trăm ngàn vạn kiếp bạn vẫn mãi ở trong luân hồi. Nếu có hạt giống Phật thì sự tu hành tương đối mau hơn.
Không nên để những thứ xấu xa, rác rến chất đầy đầu não, thật là thống khổ đấy! Không nên yêu thích cái đẹp; hãy mặc cái y này (chỉ áo cà-sa của chư Tăng, Ni) mà trực tiếp tới cõi Tây Phương. Nếu bạn thích (mặc áo) đẹp thì sau này khi ở Tây Phương sẽ tự nhiên có y phục đẹp mặc vào, không cần phải may phải mua. Có kẻ chưa tới Tây Phương song hiện đã có hình dáng như ở đó rồi.
B. Ngã Mạn
Không nên học tánh cứng đầu, cố chấp.
Không nên có ngã-chấp (luôn nghĩ tới cái "ta", luôn cho rằng "ta" đúng). Có ngã-chấp thì trí huệ không khai mở. Ðùng nên sanh lòng cống cao ngã mạn bởi vì nó chướng ngại đường Ðạo.
Không dẹp sạch ý niệm về "ta" và "người" (nhân-ngã tướng), thì không cách gì giải thoát. Sư-Phụ vốn dạy mình Pháp-môn Giải-thoát; Ngài nói Pháp không phải để thu nhập nhân tài.
Nếu kẻ có tài năng song không khéo tu hành, do đó cứ nghĩ lăng xăng, tính toán việc này việc nọ. Tu hành là tu ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; là mặc áo thô, ăn cơm đạm, coi thử bạn có khả năng tu luyện để đầu óc được thanh tịnh hay chăng.
C. Thiện ít. Ác nhiều
Trong tâm, thế lực xấu ác thì mạnh còn khuynh hướng tốt thì yếu.
Thế tốt thì nói: "Tôi là tốt lắm đây"; thế xấu thì nói: "Tôi là tốt nhất đây!" Tư tưởng xấu ác luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên thiện chung cuộc bị ác đè bẹp. Ðó là điều không tốt.
Từ thuở vô thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng ta ít ỏi còn ý niệm xấu ác lại nhiều, nên tự-tánh trong sạch (Phật-tánh) bị che phủ, không xuất hiện được. Bởi vì niệm ác tích lũy ấy mà ta cứ khởi vọng niệm, thích ngủ, thích hưởng thụ... mà không cách gì đề kháng đặng. Ðó chính là nghiệp chướng; do đó mình phải tu để chế phục nó. Nếu không, dù bạn đi đây đi đó nghe giảng, bạn chỉ là nghe vô một đống mà phiền não thì vẫn đầy dẫy, chẳng chỗ nào thông đạt!
Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Khi không chánh niệm thì tà niệm khởi.
Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng. Có kẻ vì vậy mà muốn rời bỏ chùa; hoặc có kẻ cảm thấy không có ý vị gì nên muốn hoàn tục. Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó!
Không sợ hãi thì tâm mới an định. Khi tâm sợ hãi thì không thể an định.
Sợ hãi là tâm lý chỉ cho mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như mình; do đó, chỉ có mình là bất lợi. Khi mình không tự chủ thì mới sợ. Sợ quá, sợ hoài, thì sanh phiền não. Khi ấy, tâm không an định thì sẽ chẳng còn Ðạo tâm tu hành nữa!
3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành
A. Trừ Tướng
Hỏi: Thưa Thầy, khi thực hành mới thấy không giản dị!
Ðáp: Ðừng nói là "không giản dị." Bạn cứ làm thì sẽ hết sức giản dị!
Hỏi: Song con là kẻ phàm phu cho nên...
Ðáp: Nói mình là "phàm phu", tức là chấp trước!
Hỏi: Song con không có tu hành gì...
Ðáp: Ðừng nên nói không có tu hành (rồi không tu). Bạn cần phải có lòng tin, rằng: "Tôi cũng có khả năng thành Phật. Tôi cũng có khả năng tu tới nơi tới chốn." Nghĩ như vậy thì bạn mới tinh tấn hơn. Ðừng nên cứ thường nói: "Tôi, tôi..."; bởi chính nó (quan niệm về "tôi") tác quái, làm chướng ngại bạn đấy!
Xưa
kia có một vị quan từ chức, xuất gia tu hành. Ông ta sợ
kẻ khác biết được thân phận của mình do đó không hề
tiết lộ thân thế cao quý (kẻ có chức vị cao, ăn mặc đầy
đủ, thì rất dễ bị đọa lạc vì phú quý không thể vĩnh
cửu). Ông ta làm đủ thứ việc thấp kém như lau chùi, quét
dọn...; không ai biết thân thế của ông. Một ngày nọ, ông
ta quét dọn rồi khai ngộ! Ông ta biết ra là xưa kia mình đã
từng làm bể bao nhiêu cái chén cái bát của chùa, do đó cấp
tốc bồi thường cho chùa.
Chính
vì ông ta không có ý niệm về cái "tôi" (ngã tướng) nên
mới được khai ngộ. Bởi vậy, hãy trừ sạch ngã-tướng.
Cần
phải không có tâm phân biệt thì mới trừ nỗi ngã-tướng.
Khi còn chấp chặt vào ý niệm về "tôi", thì tu chẳng đến
đâu. Trừ được ngã-tướng thì trí huệ mới khai phát.
Tu hành, không thể chấp trước. Chấp trước tức sanh phiền não.
Tu Ðạo là cần trừ tham, sân, si; đạt tới thân, miệng, ý thanh tịnh.
Muốn trừ cái cái chấp về "tôi" thì phải từ nơi mặc áo thô, ăn cơm đạm mà dụng công - giảm bớt ham muốn, không có tâm phân biệt, không suy nghĩ về mình, về người, về chúng sanh, hay về thọ mạng.
Mọi thứ đều là anh-tôi tranh chấp mà ra. Coi xem bạn có thể tu đến chỗ chẳng còn anh-tôi, mình-người chăng?
Bạn cần tu nhẫn; nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu. Nếu bạn không thể tu nhẫn, thì chỉ uổng công mang ngoại biểu, hình tướng kẻ xuất gia!
Ðừng nên cho mình lúc nào cũng đúng. Thái độ như vậy không thể tu tâm.
Tu hành, không thể chấp trước. Chấp trước tức sanh phiền não.
Tu Ðạo là cần trừ tham, sân, si; đạt tới thân, miệng, ý thanh tịnh.
Muốn trừ cái cái chấp về "tôi" thì phải từ nơi mặc áo thô, ăn cơm đạm mà dụng công - giảm bớt ham muốn, không có tâm phân biệt, không suy nghĩ về mình, về người, về chúng sanh, hay về thọ mạng.
Mọi thứ đều là anh-tôi tranh chấp mà ra. Coi xem bạn có thể tu đến chỗ chẳng còn anh-tôi, mình-người chăng?
Bạn cần tu nhẫn; nhẫn nhục, nhẫn nại là căn bản, gốc rễ của việc tu. Nếu bạn không thể tu nhẫn, thì chỉ uổng công mang ngoại biểu, hình tướng kẻ xuất gia!
Ðừng nên cho mình lúc nào cũng đúng. Thái độ như vậy không thể tu tâm.
Tu
hành không cần có ý niệm về "tôi." Không nên kể lể mình
hồi xưa, lúc chưa xuất gia, thì có chức phận thế này, địa
vị thế nọ; nếu làm vậy thì không thể buông bỏ mọi thứ,
không thể tu Ðạo. Khi đã xuất gia thì chẳng còn chức phận,
địa vị, học lực, bằng cấp, tài năng...; mọi người đều
như nhau cả.
Tốt
thì mỉm cười, xấu cũng mỉm cười; bởi tốt hay xấu đều
do tâm phân biệt đặt bày ra. Do đó, đừng phân biệt.
Khi
gặp việc khiến bạn cao hứng, vui vẻ, hãy tự hỏi: "Ai đang
vui vẻ?" Khi gặp chuyện phiền não, hãy tự hỏi: "Ai đang
buồn lo?"
Khi
bạn có ý nghĩ không tốt, hoặc khi có phiền não, thì hãy
hướng về Ðức Phật A-Di-Ðà mà nói. Hễ những thứ ý niệm
xấu ấy đến, thì đập nát chúng ngay.
Do
đó bạn cần niệm Ðức A-Di-Ðà, tự nói rằng: "Phiền não!
Hãy mau đi khuất, chẳng có việc gì cho bây cả!" Ðó là dùng
tâm trị tâm vậy.
B. Xả Bỏ Tâm Phân Biệt
Con đường tu cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có thể khai ngộ. Không nên hy vọng mọi người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì không khác gì kẻ thế tục.
Tu
hành thì phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy tu mới tiến
bộ.
Tu
hành là làm những việc mà không ai chịu làm; luôn dũng mãnh,
tinh tấn, chứ không phải tính toán, so đo rằng: "Việc này
đâu phải để tôi làm!"; bởi đó là thái độ chẳng khác
người đời.
Làm
những việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ.
Tu hành không phải là làm việc tính toán so đo; không cần
phải toan tính, sắp đặt.
Ðiều
tốt thì góp nhặt để học; điều xấu thì vất qua một
bên. Tự mình trong lòng thông hiểu là đủ rồi; thuận theo
đây mà tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật. Tu thì đừng hỏi "đúng"
với "sai", đừng kể "hữu lý" hay "vô lý."
Tu
thì đừng nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình đúng lý mà
người khác nói mình sai, mình cũng cứ tiếp nhận ý kiến
ấy. Hễ bạn tự nhận mình sai - dù mình đúng - thì phiền
não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không
an, phiền não sẽ kéo tới.
Trên
đường tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời,
thế tục; do đó, đừng nên tranh chấp "đúng" với "không
đúng."
Xưa,
có hai người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người ngồi
rất nghiêm trang, còn người kia thì nghiêng qua ngả lại; nhưng
Sư-Phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm trang.
Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sanh phiền
não rồi; song người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ,
thỉnh vấn Sư-Phụ khai thị dạy bảo.
Tu
hành không phải là tranh chấp "đúng" với "sai." Tu hành cần
phải có công phu nhẫn nhục; dù mình đúng mà bị trách là
sai, mình cũng phải nhận chịu.
Nếu
bạn thật có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn;
do vậy cần tu cả phước lẫn huệ. Mỗi người cần trừ
sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng
tạo thêm nghiệp mới nữa; như vậy thì phước, huệ sẽ
tăng gia.
(Phương
pháp: Niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở
chùa, không tính toán. Hễ tính toán thì sanh phiền não, tức
là tạo thêm nghiệp mới.)
C. Tâm Kiên Cố
Khờ khạo mà tu hành, ngốc nghếch mà ăn uống, niệm Phật cho nhiều.
Hôm
nay là hôm nay. Ngày mai là ngày mai. Chuyện gì cũng đừng rớ
tay, xỏ mũi vào. Ðó chính là tâm kiên cố, chính là tu hành.
Khi
tu thì cứ tu, cần gì phải suy nghĩ, tính toán nào là đi học
Phật-học, lấy bằng cấp, làm này làm nọ? Ðó đều không
phải là chuyện tu hành.
Sau
này, khi tôi (Hòa-Thượng Quảng Khâm) không còn, các bạn đừng
buồn; chỉ nghe theo lời tôi mà niệm Phật, tu Khổ-hạnh.
Ðối với hoàn cảnh tốt hay xấu, đều không nên chấp trước,
cần phải tùy duyên.
Tu
hành cần phải gạt bỏ cái thân. áo quần, ăn uống, chỗ
ở đều phải giản dị. Cần phải mặc áo thô, ăn cơm lạt.
Nếu quá chú trọng đến ăn, mặc, ở, thì bạn nào khác gì
kẻ thế tục? Khi bạn coi nhẹ việc ăn, mặc, ở, thì mới
trừ nổi tham, sân, si.
Khi
những thứ ấy (áo quần, ăn uống, nhà cửa...) quá sung túc,
thì dục vọng sẽ phừng phừng, lòng tham sẽ cao ngất. Do
đó, muốn buông bỏ thân tâm thì phải từ nơi ăn, mặc, ở
hạ thủ công phu.
Khi
có chuyện tốt xấu gì bạn cũng đừng để hiện ra ngoài
mặt. Như bạn sanh bệnh thì chớ để kẻ khác biết bạn
bị bệnh. Như tôi tuy có bệnh, song ai nhìn tôi cũng nói: "Trông
Thầy thân thể khỏe lắm"; không ai biết tôi lúc ấy có bệnh
cả.
D. Canh Gác Sáu Căn
a) Mắt
Khi
thấy khuyết điểm, lỗi lầm của kẻ khác, đừng nên khỏi
tâm phân biệt, so sánh. Hãy quán sát chính mình. Ai ai cũng
có Phật tánh cả.
Không
nên tối ngày cứ dòm ngó lỗi xấu của người. Phải thường
xuyên tự nhìm xem mình có lỗi lầm, sai trái gì hay không.
Tu như vậy mới không đi ngược lại vời Ðạo.
Phàm
thấy việc gì cũng đừng quá chấp tướng. Thấy tướng mạo
tốt thì chớ sanh lòng vui thích; thấy tướng mạo xấu cũng
chớ khởi phiền não.
b)
Tai
Tu
hành cần phải tự tại. Ðừng để tâm vào lời dư luận
phê bình bạn này nọ.
Nói
bạn tốt, phê bình bạn xấu: Ðây chẳng phải là người
ta sai, mà thật ra là bạn không an định.
Người
khác phê bình bạn: Chính đây là nơi bạn phải tu.
Tu
hành cần có cảnh giới tới thử thách thì mình mới tu đặng.
Tự tu, tự ngộ - phiền não là Bồ-đề. Tu hành chính là
tu ở chỗ đó. Khi có kẻ công kích mà tâm bạn vẫn an nhiên,
bình lặng, không nổi sóng gió; thì đó là tu.
Không
phải nói rằng: "Mỗi ngày tôi lạy Phật bao nhiêu lạy, niệm
Phật bao nhiêu chuỗi"và cho như thế là đủ; phải biết đó
là những nhân duyên thiết yếu (song phải biết tu trong những
lúc còn lại).
Khi
bạn quét chùa sạch sẽ rồi, có Thầy lại hằn học nói
bạn quét chưa sạch. Nếu lúc đó bạn cùng Thầy ấy biện
bác, giải thích, thì bạn còn tánh tình kẻ tục. Nếu bạn
chấp nhận lời mắng nhiếc, rồi trả lời: "Vâng, tôi sẽ
quét sạch ngay"; thì đó là tu hành.
Khi
tu tới chỗ có chánh niệm, lòng sáng tỏ, thì tai bạn thích
nghe lời tốt hay lời xấu, bạn đều cảm nhận rất rõ.
Khi tai bạn chỉ thích nghe lời hay lời tốt, thì hãy đem lời
xấu lại mà tu.
c)
Miệng
Khi
nói, lời lẽ cần phải tinh (chỉ nói điểm chính) và giản
(đơn giản). Khi lời không cần phải thốt ra, đừng nói!
Tu
hành đừng nên thị phi (chê bai, nói xấu người khác), đừng
đặt điều.
Trong
đạo Phật, sợ nhất là nói thị phi. Kẻ nói chuyện thị
phi là kẻ thị phi (không đáng tin cậy), chỉ tạo khẩu nghiệp.
Tu hành chính là ở chỗ này mà tu thành; nếu không thì là
kẻ chỉ biết ăn ngày ba bữa!
Ðừng
nói thị phi; vì nói thị phi thì sẽ dẫn tới thất bại,
và khiến kẻ khác không được yên ổn.
Muốn
nói gì về người khác, trước hết hãy tự hỏi lương tâm
mình.
Ðừng
phê phán người khác là sai, là có lỗi. Lời nói một khi
thốt ra, bạn đã sai trái rồi. Do đó, cái miệng thật quan
trọng lắm!
Mỗi
ngày phải tự huấn luyện để lòng đừng tham, đừng nói
lăng nhăng.
Khi
mở miệng, hãy nói về Phật Pháp, cầu sanh Tây Phương. Chủng
tử "thói quen thế tục" bạn đã trồng trong tâm quá đủ
rồi; do đó, đừng nên tiếp tục nói những lời thế tục,
thi phi nữa!
Có
kẻ khi nói thường làm cho người nghe phiền não, tâm không
thể an định; khiến người nghe không biết phải xử lý làm
sao cho đúng. Ðã vậy, y còn làm người ta phải nghe y mà chẳng
biết y có nghe cho họ chăng? Kết quả là người nghe phiền
não, buồn bực, không cách gì giải khai nổi.
Trong
chùa, không được hai, ba người tụm lại nói chuyện lăng
nhăng; hoặc kết bè đảng, phê bình người này kẻ nọ, thị
phi đúng sai, trong lúc họ không hiện diện. Nếu làm vậy
sẽ dễ gây ra sự bất an trong chúng, phạm vào giới quấy
nhiễu đại-chúng.
Tu
hành cần phải trong ngoài nhất trí, không tự mâu thuẫn;
nghĩa là không được "khẩu thị tâm phi" (miệng nói một
đằng, tâm nghĩ một ngả).
Tu
hành phải chú
ý đến khẩu nghiệp. Miệng tốt thì tâm mới
tốt. Ðừng cho rằng: "Tôi miệng tuy không tốt, song lòng tốt!"
Sau
khi xuất gia rồi, trong chùa vẫn có kẻ nói chuyện thị phi.
Song le, bạn đừng cùng bọn họ nói thị phi là đủ. Ðừng
nên cứ mở miệng là thị phi hoài. Kẻ nào nói phiếm, lẻo
mép về chuyện người khác, thì y là kẻ thị phi.
Hễ
có thời giờ rảnh rỗi, bạn hãy lạy Phật, niệm Phật.
Khi
bạn khởi phiền não, buồn lo, chớ nên kiếm kẻ khác nói
này nói nọ. Nói lui nói tới, thế nào bạn cũng mắc vào
thói thị phi lăng nhăng. Tốt nhất là hãy lạy Phật cho nhiều
để giải trừ phiền não.
Hỏi:
Nghe Thầy giảng (về tiết thực) nên con không dám ăn nhiều
quá, ăn no quá; song sức lực yếu ớt, con phải làm sao đây?
Ðáp:
Cần ăn cho đủ. Chủ yếu là không tham, không chấp trước.
Không
phải là hễ thức nào ngon thì ăn nhiều một chút, thức nào
dở thì ăn ít một tí. Ðừng tham cầu hương, vị, xúc, pháp.
Khi
bạn khởi ý nghĩ xấu, đừng chấp trước nó; hãy tự nhủ
thầm: "Mình không nên nghĩ ác!" Không thể dùng hình phạt,
bởi vì hình phạt chỉ làm tổn hại chính mình mà thôi.
Sự
vật có tướng trạng thì dễ thấy. Việc vô hình vô tướng
thì khó thấy (như nói thị phi...); ta cần có lòng cứng rắn,
đừng để bị chúng lôi kéo.
Hỏi:
Có nghiệp mang theo thì làm sao khai trí huệ?
Ðáp:
Niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" cho nhiều.
Nếu
các bạn noi gương đức hạnh của Sư-Phụ (Hòa-Thượng Quảng
Khâm) thì đi đâu cũng yên ổn cả.
Thân
thể giả dối của chúng ta khó tránh bệnh tật; song, thân
bệnh là bệnh nhỏ.
Có
vọng tưởng, tham, sân, si mới là bệnh lớn. Còn vọng tưởng
là còn tiếp nối chuỗi luân hồi, không dứt được vòng
sanh tử.
Ðể
bảo đảm có được chánh niệm ở giây phút lâm chung, bình
thường mình cần phải uống thuốc "A-Di-Ðà Phật"; nếu không,
chết rồi chẳng biết về đâu!
Lúc
đi, đứng, nằm, ngồi, phải luôn thể hội Phật pháp, giác
ngộ đạo lý; vậy mới không uổng phí thời gian. Thời gian
qua rất chóng, phải tận dụng nó để thể nghiệm. Nếu tu
như vậy, ý nghĩ xấu mới không có cơ hội nảy sanh; không
làm vậy, sẽ không có được chánh niệm.
Khi
miệng không nói thì tâm suy nghĩ; song đừng suy nghĩ những
thứ có sắc tướng, hình bóng; phải suy nghĩ thư ra ngoài
sắc tướng.
E. Tâm Trường Viễn (bền bĩ lâu dài)
Bạn cho tu hành dễ lắm sao?
Bây
giờ, việc chúng ta làm chỉ là thứ khổ công, khổ tu mà
thôi. Bởi vì hiện tại chúng ta chưa đoạn được tham, sân,
si, do đó đây là giai đoạn tu luyện tâm trí. Chờ khi những
thứ ấy bị đoạn không còn một mảy may, thì mới gọi là
nhập Ðạo.
Tu
hành không phải là việc dễ "ăn" như đậu hủ, bỏ vô miệng
là có thể ăn ngay!
Các
bạn cần để 10 năm, 20 năm trì một câu "A Di Ðà Phật" không
buông lơi, cộng thêm công phu Tín, Nguyện, Hành mới được.
Nếu
các cô có Ðạo-tâm, từ từ tu tới 40, 50 tuổi, không có
quái ngại, trở thành "lão sư bà", thì lúc đó các cô mới
có đặng một chút xíu tự tại; song không phải là tự tại
gì lắm. Nếu các cô không ngộ Ðạo, thì dù đến 40, 50 tuổi,
phiền não sẽ vẫn tràn ngập, dễ thành điên đảo.
Tu
hành cần giữ Trung Ðạo (trạng thái cân bằng). Ðừng quá
gấp, đừng chậm; phải như "tế thủy trường lưu", nước
chảy từ từ mà không ngừng.
Tu
hành, phải giữ Trung Ðạo bằng công phu buông bỏ và nhìn
thủng. Cần mặc áo thô, ăn cơm đạm, và không chấp trước
vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Song le, phải hành trì
một cách tự nhiên; không phải miễn cưỡng, bày đặt không
ăn cơm, không mặc áo dù trời lạnh, hay không ngủ nghỉ để
chứng tỏ mình là một tay tu hành cừ khôi! Khi tu tới một
trình độ nào đó, tự nhiên bạn sẽ không còn biết đói,
không còn cần ngủ nghỉ nữa.
Hãy
tinh tấn, dũng mãnh tu hành. Tu tới lúc bạn không còn nhu yếu
về ăn, mặc, ở, thì khi ấy bạn có thể lên núi bế quan;
như thế thì may ra bạn có thể thành tựu. Nếu tu chưa tới
trình độ như vậy mà bế quan, thì sau này sẽ gặp chướng
ngại.
Trong
quá trình tu hành, nảy sanh phiền não là việc không tốt.
Cần phải không có phiền não, lo âu, buồn vui, thì mới tốt.
Nếu
có thể mỗi ngày yên ổn, bình tĩnh để niệm Phật, lạy
Phật, tu trì, không có chuyện gì xảy ra, là tốt rồi; chớ
nên vọng tưởng chuyện này chuyện nọ.
Khi
không tạo tội lỗi, thì đó là công đức rồi!
Hôm
nay là hôm nay. Ngày mai là ngày mai.
Hôm
nay không xảy ra chuyện bất tường, có thể niệm Phật qua
ngày, là đủ lắm rồi.
Việc
ngày mai, để ngày mai - chớ quái ngại, chớ âu lo.
4. Bản Sắc Của Việc Tu
Trừ bỏ nhân-ngã tướng (ý niệm và sự chấp trước vào quan niệm có mình và người) là việc mà người tu phải làm cho thấu. Làm được, đó gọi là công phu thiệt. Nếu không làm được, bạn đi tới chỗ nào, chùa nào tu cũng vô ích. Tu tới trình độ như vậy, công phu của bạn mới thành tựu.
Chuyện
gì cũng là do "tôi, anh", mình, người" tranh chấp, phân tranh
mà ra. Xem bạn có khả năng tu tới chỗ không còn "mình, người"
chăng?
Cứ
nhậm vận mà làm, tùy duyên qua ngày, thì chuyện gì cũng chẳng
quấy nhiễu được tâm bạn. Mọi thứ: ăn, uống, ngủ, nghỉ,
mặc, ở, thị phi, vinh nhục... hãy lạnh lùng buông bỏ chúng
đi. Khi quét sạch được những ngoại duyên ấy, thì trí huệ
trong tâm sẽ tự nhiên khai phát.
Tâm
bình thường chính là Ðạo: Mỗi ngày cứ giữ cho tâm đừng
khởi phiền não, âu sầu, cũng không vui vẻ thái quá. Ðối
đãi với mọi người thì không tốt cũng không xấu; cứ tùy
duyên mà kết mối giao hảo với họ. Song, chớ phan duyên,
tức là đừng lợi dụng họ để thủ lợi.
Lúc
nào cũng phải chú ý đến sự khởi tâm động niệm, sự
suy nghĩ của mình. Khi có ý tưởng xấu thì phải lập tức
thức tỉnh, dẹp đi.
Tu
hành, cần tu với thái độ vô ngại, ví như con hạc làm tổ
vậy. Con hạc không lo lắng gì về ăn uống cả; nó thích
chỗ nào thì làm tổ chỗ đó. Khi nào muốn, nó lại tung cánh
bay đi nơi khác. Ðó là giống chim tự do, tự tại nhất.
Khi
tu, bạn phải có thái độ "vô quái ngại" ở mọi nơi, mọi
chốn. Ðược vậy, thì tâm mới an tĩnh, mới như như bất
động.
Tu
hành, cần tu tới mức không còn quái ngại trong hoàn cảnh
động hay tĩnh.
Thế
nào là "động và tĩnh không còn quái ngại?" Tức là ở trong
hoàn cảnh động mà tâm bạn không động: Bạn không bị hoàn
cảnh động bên ngoài ảnh hưởng làm tâm bạn lay chuyển,
nghĩ ngợi. Và khi ở trong hoàn cảnh tĩnh lặng, bạn không
có ý nghĩ là yên lặng.
Phải
dùng tiếng niệm Phật để quét sạch hai trạng thái bụi
bặm đó, khiến liên hoa khai mở; như vậy mới đắc chánh
niệm. Khi niệm Phật, bạn cần phải chuyển niệm - chuyển
hóa, biến ác niệm thành chánh niệm!
Việc
gì cũng phải buông bỏ. Buông bỏ chính là công phu.
Bình
thường, đối đãi với việc gì cũng buông xả hết; không
có vướng mắc, quái ngại vào việc gì. Ðó là để tránh
trường hợp lúc lâm chung, giây phút tối hậu, vọng tưởng
nổi lên lôi kéo mình vào vòng luân hồi bất tận.
Mục
đích việc tu là để lúc chết, bạn không còn vướng bận,
không còn quái ngại chuyện gì cả; chỉ thảnh thơi đem theo
linh quang (công đức trí huệ sáng suốt) của chính mình mà
thôi!
Tu
hành, cần phải ở chỗ nào cũng tu như nhau; đâu đâu bạn
cũng có thể tự tại. Tu là tu ở chỗ này đây.
Tu
hành, cần không để cho ngoại cảnh bên ngoài ảnh hưởng,
lôi kéo tâm mình.
Bạn
cần chú ý tự tâm: Cần phải có niềm vui khởi dậy từ
nội tâm chứ không phải là cái vui do hoàn cảnh tốt đẹp
bên ngoài đưa đến. Do đó, bạn phải luôn quan sát tự tâm,
xem xét sự suy nghĩ của mình, và đừng chú ý tới ngoại
cảnh. Phải tu tới độ "tôi chẳng có gì cả" mới được!
Tu
hành là tu ở phước lẫn huệ. Tu tới lúc bạn lớn tuổi,
"lão" rồi, thì phước và huệ sẽ đầy đủ; bấy giờ, mọi
người sẽ cung kính bạn (đừng tham được cung kính khi còn
trẻ, lúc còn thiếu phước huệ).
Khi
bạn tu chân thật, đúng đắn, thì dù bạn ở đâu người
ta cũng sẽ tìm đến; ai ai cũng vui vẻ muốn cùng bạn đàm
đạo.
Cần
tu đến chỗ chánh niệm lúc nào cũng hiện tiền. Có chánh
niệm thì mới có khả năng phân biệt thế nào là đúng, thế
nào là sai; rồi từ đó mà hành động.
Tu
hành, là tự mình tu. Tu tới lúc thể ngộ - ngộ cái khổ
ở Ta-bà, cái khổ phải luân hồi. Hễ ngộ một việc thì
một chút trí huệ xuất hiện.
Tu
hành, cần tu tới lúc có trí huệ. Chuyện gì tới tay, bạn
đều biết vận dụng nó. Khi nói, cần phải biết nói sao
cho viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi thì mới có thể
khiến cho người khác tin theo và vui vẻ tiếp nhận.
Có
trí huệ mới không tạo ác nghiệp. Do đó, phải tập nuôi
dưỡng tâm từ bi và thực hành hạnh Bồ Tát.
Tu
hành, cần tu cho có tướng mạo từ bi. Tu làm sao để người
khác có thể thấy được vẻ hiền hòa, từ bi trong ánh mắt
của mình!
Khi
một người tu hành thành tựu thì những kẻ khác sẽ được
nhờ phước. Lúc đó, ai ai cũng khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn
học theo gương người ấy.
Khi
ai cũng muốn tu hành thì hãy cùng nhau khuyến khích, cùng nhau
tu. Nếu không vậy thì mọi người sẽ khởi chuyện thị phi,
sanh lòng đố kỵ, tranh chấp, và trở nên ngu si; bấy giờ,
việc tu ở chùa sẽ không còn yên ổn nữa.
Tu
cho tốt thì tự nhiên có người ủng hộ; chứ không phải
bắt ép người ta mà được.
Ðừng
nên hy vọng, mong cầu thí chủ lại cúng dường này nọ. Ðừng
ỷ lại vào thí chủ. Bạn chỉ cần nỗ lực tu hành; khi tu
thành tựu thì Thiên, Long, Bát Bộ đều tới ủng hộ bạn.
Khi
ngồi Thiền, thấy cảnh giới tốt hay xấu đều đừng chấp
trước; cũng đừng nói về nó.
Phật
Pháp thì không dính mắc, ngưng trệ nơi cảnh giới Lạc, Minh
và Không.
Khi
thân khinh an, nhẹ nhàng, thì tâm sẽ hoan hỷ (Lạc); khi trong
lòng ít vọng niệm thì tâm sẽ sáng suốt (Minh); và khi chẳng
có một ý nghĩ hay vọng niệm sanh khởi thì đạt tới trạng
thái không.
Nếu
bạn vướng mắc ở cảnh giớ Lạc thì đọa và Dục-giới
Thiên, chấp trước vào cảnh giới Minh thì kẹt trong Sắc-giới
Thiên, và bám chặc vào cảnh giới Không thì mắc ở Vô-sắc-giới
Thiên.
No comments :
Post a Comment