Buổi sáng khi chúng ta thức dậy, chúng ta nhận ra là mình
đang còn sống và sự sống đang có mặt xung quanh ta. Chúng ta nhận ra 24
giờ là một món quà của sự sống và chúng ta nguyện sống thật sâu sắc với
những giờ phút quý báu này.
Trong chuyến hoằng pháp mới đây tại Thái Lan, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có buổi nói chuyện tại trường Đại học Thammasat với chủ đề “Những phép lạ của phút giây hiện tại” (The Miracles of the Present Moment). Trong buổi nói chuyện này, Thiền sư đã chia sẻ về hơi thở ý thức, về phương pháp lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái như là những phương pháp có công năng trị liệu, mang lại cho chúng ta khả năng hiểu biết và thương yêu đối với bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài. Thông điệp của Thiền sư về tính bất nhị và tương tức – một trong những giáo lý căn bản của đạo Bụt, cũng có tác dụng gợi mở cho đất nước Thái Lan vốn đang bị chia rẽ về chính trị và sắc tộc về một hướng tiếp cận của đạo Bụt cho một nền hòa bình trên thế giới, đồng thời giúp cho hai truyền thống của đạo Bụt - truyền thống Nam Tông (Theravada) và truyền thống Bắc Tông (Mahayana) - xích lại gần nhau theo tinh thần bất nhị. Sau đây là phần trích đoạn (đã được biên tập) từ bài pháp thoại của Thiền sư:
Hồi tôi mới đi tu, lúc 16 tuổi, thầy tôi có trao cho tôi một quyển
sách gồm 60 bài thi kệ để học thuộc lòng. Bất kỳ vị xuất gia nào cũng
phải học thuộc các bài thi kệ này để thực tập chánh niệm. Bài thi kệ đầu
tiên là bài thức dậy buổi sáng:
“Thức dậy miệng mỉm cười
Hai bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.”
Hai bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.”
Tất cả các bài thi kệ đều có bốn câu. Mỗi câu của bài thi kệ đi theo
một hơi thở, câu đầu đi với hơi thở vào, câu thứ hai đi với hơi thở ra.
Khi mình thở vào, thở ra và thầm đọc bài kệ, mình sẽ ý thức được rõ ràng
mình thực sự đang làm gì. Buổi sáng khi chúng ta thức dậy, chúng ta
nhận ra là mình đang còn sống và sự sống đang có mặt xung quanh ta.
Chúng ta nhận ra 24 giờ là một món quà của sự sống và chúng ta nguyện
sống thật sâu sắc với những giờ phút quý báu này.
Khi chúng ta thực tập như vậy, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay tức
thì. Đối với tôi, sự kiện rằng mình đang còn sống là một điều kỳ diệu;
chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để ta ăn mừng rồi. Vì vậy, chỉ cần thở vào
và ý thức rằng mình đang còn sống đã là một phương pháp thực tập giúp
mang lại hạnh phúc rồi.
Còn có một bài thi kệ để thực tập khi chải răng. Khi thực tập bài thi
kệ này, chúng ta có thể biến hai hay ba phút chải răng thành những giây
phút hạnh phúc. Tôi nay đã trên 80 tuổi, vậy mà mỗi lần chải răng tôi
vẫn thấy vui. Tôi nghĩ thật là hạnh phúc quá chừng, ở tuổi này rồi mà
tôi vẫn còn răng để chải!
Tôi cũng có làm thêm những bài thi kệ mới để thực tập. Khi tôi còn là
một sadi, ở Việt Nam thời đó, người tu không đi xe hơi, thậm chí là
không lái xe đạp. Tôi là người tu đầu tiên ở Việt Nam sử dụng xe đạp. Vì
vậy mà tôi có làm một bài kệ để thực tập khi lái xe đạp. Sau này tôi có
làm thêm nhiều bài thi kệ mới, chẳng hạn như bài kệ dùng khi sử dụng
điện thoại hoặc khi đi máy bay.
Sử dụng những bài thi kệ này luôn mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc.
Những bài thi kệ có tác dụng giúp cho ta ý thức về những gì ta đang làm
trong giây phút hiện tại và chúng ta có thể làm những việc đó với nhiều
niềm vui. Bụt có chỉ dạy cho chúng ta một giáo pháp mà tôi cho là rất
quan trọng, đó là giáo pháp Hiện Pháp Lạc Trú. Theo giáo pháp này, chúng
ta đã có đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, những điều kiện để
có hạnh phúc ngay trong hiện tại. Chúng ta không cần đi tìm kiếm hạnh
phúc ở tương lai. Nếu chúng ta biết đem tâm trở về với thân và thiết lập
thân tâm hợp nhất trong giây phút hiện tại thì chúng ta sẽ nhận ra rằng
chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay bây giờ và ở
đây.
Nhiều người trong chúng ta tin rằng hạnh phúc chưa thể có được trong
hiện tại và cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa thì ta mới thực sự hạnh
phúc. Đó là lý do tại sao chúng ta cứ tiếp tục chạy theo những đối tượng
mà mình tìm cầu. Làm như vậy thì chúng ta khổ. Bụt khuyên chúng ta nên
trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự
sống đang có sẵn cho ta ngay trong giây phút này. Trong nhiều kinh, Đức
Thế Tôn đã dạy rằng quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới; chỉ có
duy nhất một giây phút mà ta có thể thực sự sống, đó là giây phút hiện
tại.
Một ngày nọ, có một thương gia đến thăm Bụt. Đi cùng với ông còn có
vài trăm thương gia khác. Hôm đó, Bụt đã thuyết giảng cho họ nghe về
giáo pháp Hiện Pháp Lạc Trú. Bụt biết rất rõ rằng các vị thương gia này
đang lo nghĩ quá nhiều về những thành tựu trong tương lai. Họ không có
thời gian cho chính mình và cho những người mà họ thương yêu. Vì vậy mà
Bụt đã dạy rằng, “Này các vị, các vị đừng tìm kiếm hạnh phúc ở tương
lai. Hạnh phúc đang có sẵn cho quý vị ngay bây giờ và ở đây.”
Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt đã chỉ bày cho chúng ta những bài
thực tập cụ thể giúp chế tác niềm vui (hỷ) và hạnh phúc (lạc). Bài thực
tập thứ năm chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác hỷ và bài thực tập
thứ sáu chỉ cho chúng ta phương pháp để chế tác lạc. Giáo pháp của Đức
Thế Tôn về phương pháp chế tác an lạc, hạnh phúc là một giáo pháp rất rõ
ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định
thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn những điều kiện hạnh phúc đang
có mặt cho ta ngay bây giờ và ở đây. Chẳng hạn như khi chúng ta tiếp xúc
với hai mắt: “tôi đang thở vào và có ý thức về hai mắt của tôi; tôi
đang thở ra và mỉm cười với hai mắt tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì
tuệ giác sẽ phát sinh. Chỉ trong hai hay ba giây là ta có thể nhận thấy
rằng đôi mắt của mình vẫn còn tốt, còn sáng. Chuyện hai mắt mình vẫn còn
sáng là một điều mầu nhiệm, một phép lạ. Một thiên đường của màu sắc và
hình ảnh đang có mặt cho mình. Khi mình ngồi trên bãi cỏ, chỉ cần mở
mắt ra là mình có thể tiếp xúc được với thiên đường đó ngay bây giờ và ở
đây. Đối với một người bị khiếm thị thì mơ ước sâu sắc nhất của họ là
làm sao cho mắt họ sáng lại, để họ có thể tận hưởng được thiên đường của
màu sắc và hình ảnh như chúng ta. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những
điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào để thắp sáng ý
thức rằng chúng ta đang có một đôi mắt sáng.
Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào
và ý thức về trái tim của tôi, tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim
của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm thì chúng ta sẽ
khám phá ra trái tim ta đang hoạt động một cách bình thường. Có biết bao
nhiêu người không có được trái tim hoạt động bình thường, họ có thể bị
nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ bất cứ lúc nào. Điều mong ước sâu sắc nhất
của họ là có được một trái tim bình thường như chúng ta. Vì vậy, khi ta
thở vào và ý thức về trái tim của mình thì ta tiếp xúc được với một điều
kiện hạnh phúc đã có sẵn trong ta.
Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô
vàn những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta. Trong kinh Bốn Lĩnh
Vực Quán Niệm, Bụt dạy ta về phương pháp quán chiếu cơ thể. Theo phương
pháp này, ta sử dụng ánh sáng chánh niệm để quán chiếu cơ thể; trong quá
trình quán chiếu, ta đi ngang qua và ý thức rõ ràng về tất cả các bộ
phận của cơ thể từ đỉnh đầu cho đến các ngón chân.
Những điều kiện hạnh phúc không chỉ có mặt trong ta mà còn có mặt
xung quanh ta. Nếu chúng ta ngồi xuống và lấy ra một tờ giấy để viết
xuống tất cả những điều kiện hạnh phúc mà ta đã có thì tôi tin chắc là
hai trang giấy dành cho chúng ta sẽ không đủ.
Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang tìm cầu
đều đã có mặt trong giây phút hiện tại. Những điều kiện chưa phát sinh
cũng đã có mặt trong giây phút hiện tại. Nhiều người trong chúng ta bị
mắc kẹt trong những ưu sầu và hối tiếc về quá khứ hay những lo lắng và
sợ hãi về tương lai. Nếu chúng ta biết phương pháp thực tập hơi thở ý
thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và có
thể tiếp xúc được với mầu nhiệm của sự sống ngay tức thì.
Khi mình thương một ai đó, điều mà mình muốn hiến tặng cho người đó
chính là sự có mặt đích thực của mình. Ta không thể thương một người nếu
ta không có mặt cho người đó. Điều quý giá nhất mà ta có thể hiến tặng
cho người thương chính là sự có mặt của ta. Với sự thực tập chánh niệm,
ta có thể có mặt một cách dễ dàng. Ta chỉ cần thở có chánh niệm hoặc
bước một bước chân cho có chánh niệm là ta có thể thực sự có mặt trong
giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ta có thể nhìn vào mắt người
thương của mình và nói: “Ba ơi, con đang có mặt thật sự bên ba đây. Mẹ
ơi, con đang có mặt thật sự bên mẹ đây”.
Sự có mặt của ta, nhất là khi ta có mặt một cách tươi mát và tràn đầy
yêu thương là món quà quý giá nhất dành cho những người mà ta thương
yêu. Đây là một trong những câu linh chú mà ai cũng có thể thực tập mỗi
ngày. Mình thở vào, ý thức rằng mình đang thực sự có mặt và mình nói với
người thương rằng mình đang có mặt đó cho họ. Ngay cả khi người đó
không có mặt với ta trong lúc này thì ta cũng có thể thực tập câu linh
chú bằng điện thoại di động. Có thể người đó đang ở sở làm, mình có thể
gọi điện và nói rằng “Ba ơi, ba có biết gì không? Con đang có mặt cho ba
đó!”. Hoặc nếu mình đang ở sở làm thì mình có thể gọi điện cho con
trai, con gái, cho vợ mình để nói rằng mình đang có mặt cho họ.
Câu linh chú thứ hai có thể giúp người khác hạnh phúc liền, đó là
công nhận sự có mặt của người đó thật quý giá và quan trọng đối với ta.
Khi ta thực sự có mặt, ta có thể nhận rõ sự có mặt của người khác. Ta có
thể đến gặp người đó và đọc câu thần chú: “Ba ơi, con biết là ba đang
còn sống bên con nên con rất hạnh phúc”.
Với năng lượng chánh niệm, mình cũng có thể nhận ra có điều gì đó bất
ổn đang xảy ra với người mình thương. Khi mình biết người thương của
mình không hạnh phúc, mình có thể sử dụng câu linh chú thứ ba: “Mẹ ơi,
con biết là mẹ đang khổ, cho nên con đang có mặt cho mẹ đây”. Khi mình
khổ mà người thương của mình không biết gì hết thì mình càng khổ hơn.
Nhưng nếu người đó biết được và đến với mình thì mình bớt khổ liền.
Trước khi mình có thể làm gì cho người đó thì sự có mặt của mình thôi
cũng đủ giúp người đó vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng rồi.
Giáo pháp của Đức Thế Tôn có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng
ngày. Chỉ cần có chánh niệm là mình có thể chế tác được niềm vui và hạnh
phúc. Nuôi lớn năng lượng chánh niệm mỗi ngày có thể giúp ta trở thành
một nguồn hạnh phúc cho bản thân và cho những người mà ta yêu thương.
Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó
không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự
chế tác ra.
Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt cũng dạy chúng ta trở về và tiếp
xúc với những khổ đau bên trong chúng ta. Nhiều người trong chúng ta
không có đủ can đảm để trở về với chính mình, bởi vì chúng ta sợ phải
chạm đến những niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Hầu hết chúng ta đều
tìm cách trốn chạy khỏi những khổ đau của chính mình bằng cách tiêu thụ.
Chúng ta đọc tiểu thuyết, xem sách báo, tivi, phim ảnh để khỏa lấp
những khổ đau bên trong. Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và
chuyển hóa những khổ đau đó. Và vì vậy chúng ta cứ tiếp tục khổ đau và
làm cho những người ta thương khổ đau. Chính vì điều này mà trong Kinh
Quán Niệm Hơi Thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau
trong ta; đây là bài thực tập thứ bảy trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Bài
thực tập thứ tám là buông bỏ những căng thẳng và sầu khổ. Nếu chúng ta
biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe
chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta
sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về và ôm ấp những lo lắng, sợ hãi trong ta.
Nếu chúng ta biết cách ôm ấp nỗi khổ, niềm đau trong ta một cách nhẹ
nhàng thì chỉ sau vài phút là những khổ đau đó sẽ vơi đi liền.
Khi một bà mẹ nghe tiếng con khóc, bà sẽ đến bế đứa trẻ lên và ôm nó
vào lòng với tất cả sự trìu mến. Người mẹ đó có thể chưa biết có chuyện
gì xảy ra với đứa trẻ, nhưng việc bà bế đứa bé trong tay đã có thể giúp
đứa bé bớt khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng có tác dụng
tương tự như vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ
trong ta, nhưng nếu ta có thể ôm lấy niềm đau một cách nhẹ nhàng với
năng lượng chánh niệm thì ta có thể nhanh chóng làm vơi nhẹ những khổ
đau ấy rồi.
Trong Kinh về Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ ra cho
ta sự thật thứ nhất là khổ, sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu
chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình thì
chúng ta có khả năng hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó. Những ai
không thực tập chánh niệm thì sẽ không biết cách đối diện với những khổ
đau và lắng nghe chúng. Trên thực tế, chúng ta thường sợ trở về và đối
diện với những khổ đau đó. Chỉ những ai biết cách lắng nghe những khổ
đau trong mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm
và chánh định thì sẽ có khả năng đi ra khỏi những khổ đau đó. Khi chúng
ta hiểu được niềm đau, nỗi khổ của chính mình thì ta sẽ bớt khổ liền.
Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta. Nếu ai đó
hỏi tôi rằng “Làm thế nào để chế tác được thương yêu?”, tôi sẽ nói rằng
chỉ có một cách duy nhất, đó là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của
chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu ta không hiểu những niềm đau của
mình thì ta không thể hiểu được những khổ đau của một ai khác và không
thể thương được ai.
Giáo pháp Bụt dạy về thương yêu rất rõ ràng. Chúng ta phải học thương
chính bản thân mình trước khi có thể thương một ai khác. Muốn thương
được thì trước tiên phải hiểu. Hiểu ở đây có nghĩa là hiểu về khổ đau.
Nếu ta không hiểu những khổ đau của chính mình thì chúng ta không thể
thương và chăm sóc cho chính mình được. Nếu chúng ta không hiểu những
khổ đau của người khác thì ta không thể thương và giúp người đó vơi bớt
khổ đau được. Chúng ta ai cũng biết rằng khi chúng ta hiểu được nỗi khổ,
niềm đau của chính mình thì chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được khổ đau của
người khác.
Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi
là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm
từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông. Đôi khi chúng ta không thể
truyền thông với chính bản thân ta. Nhiều người trong chúng ta luôn tìm
cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng
nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của
chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng
hơn. Và khi chúng ta có khả năng truyền thông được với chính mình rồi
thì chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với một người khác. Ta có thể đi
đến gặp người đó và nói rằng: “Mẹ ơi, con biết mẹ đã chịu nhiều khổ đau
trong những năm qua, vậy mà con đã không thể làm gì để giúp mẹ; trái
lại, con còn có những hành xử làm cho mẹ khổ đau thêm. Con đã không thể
giúp mẹ bởi vì con chưa hiểu được chính những nỗi khổ và khó khăn của
chính con. Mẹ ơi, con không muốn làm cho mẹ khổ. Sở dĩ con làm cho mẹ
khổ là vì con đã không hiểu được những khổ đau của mẹ. Mẹ ơi, hãy giúp
con! Mẹ hãy nói cho con biết về những khó khăn của mẹ, con không muốn
tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho mẹ khổ thêm. Nếu
mẹ không giúp con thì liệu có ai khác có thể giúp con?”
Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy
thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương
pháp lắng nghe với tâm từ bi. Nếu ta lắng nghe với tâm từ bi thì người
thương của ta sẽ bớt khổ liền. Trong quá trình lắng nghe, ta phải luôn ý
thức rõ rằng ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất, đó là giúp cho
người kia nói ra để cho người đó bớt khổ.
Có thể lời nói của người kia vẫn còn chứa nhiều tri giác sai lầm và
chất liệu trách móc, chua chát. Những lời nói đó có thể làm phát khởi
tâm hành nóng giận và bực bội trong ta. Và trong trường hợp đó, ta sẽ
đánh mất khả năng lắng nghe của mình, ta không thể tiếp tục lắng nghe
với tâm từ bi được nữa. Đó là lý do tại sao trong suốt quá trình lắng
nghe, ta phải luôn nắm lấy hơi thở và tự nhắc mình rằng “hôm nay mình
lắng nghe chỉ với mục đích duy nhất là giúp người kia có dịp nói ra
những niềm đau trong lòng, để giúp họ bớt khổ”.
Nếu ta làm được như vậy thì ta sẽ có thể tiếp tục duy trì năng lượng
thương yêu trong suốt buổi lắng nghe và những gì người kia nói không thể
làm phát khởi tâm hành buồn giận và khó chịu trong ta. Những lời người
kia nói có thể chứa đầy tri giác sai lầm, nhưng ta quyết tâm không ngắt
lời người đó. Ta tự dặn mình rằng có thể ba hay bốn ngày sau ta sẽ cung
cấp cho người ấy thêm một số thông tin để giúp người đó điều chỉnh tri
giác của mình. Còn bây giờ là lúc ta chỉ thực tập lắng nghe thôi.
Tăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh niệm ở châu Âu
và châu Mỹ. Chúng tôi luôn hướng dẫn phương pháp thực tập lắng nghe với
tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái; phương pháp này đã giúp rất nhiều
cặp vợ chồng hàn gắn lại với nhau. Vào ngày thứ năm của khóa tu, chúng
tôi thường đề nghị các bạn thiền sinh sử dụng những gì họ đã học được ở
khóa tu để hàn gắn lại quan hệ giữa họ với những người khác. Và luôn
luôn có những điều mầu nhiệm xảy ra khi họ áp dụng phương pháp này. Nếu
ta biết cách lắng nghe nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì ta sẽ có thể
lắng nghe được nỗi khổ, niềm đau của người khác nhờ sử dụng phương pháp
lắng nghe với tâm từ bi. Với ngôn từ hòa ái và khả năng lắng nghe sâu,
chúng ta có thể nối lại sự truyền thông giữa mình với mọi người. Nếu
người mà ta muốn làm lành không có mặt trong khóa tu thì ta có thể sử
dụng điện thoại. Nhiều người đã báo cáo lại với tôi rằng bằng cách thực
tập phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn ngữ hòa ái, họ
đã gọi điện và hòa giải được với cha, con hoặc vợ/chồng của họ.
Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một
người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm
cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu
vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ
là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ. Nhiều người trong chúng ta
không biết cách xử lý khổ đau của chính mình và vì vậy chúng ta gây khổ
đau cho chính bản thân và cho những người xung quanh, trong đó có những
người mà mình thương yêu như cha, mẹ, con cái, vợ hoặc chồng.
Những người như vậy chưa từng có cơ hội được nghe giáo pháp của Đức
Thế Tôn để có thể biết cách lắng nghe sâu và hiểu được khổ đau của chính
mình. Và từ trước tới giờ, chưa có ai giúp họ thấy được điều đó. Ta là
người đã biết về pháp môn và đã có sự thực tập, vì vậy ta có thể là
người đầu tiên có khả năng giúp họ. Ta thấy rằng người đó đang có đầy
khổ đau trong lòng và không biết phải xử lý như thế nào. Họ đang là nạn
nhân của khổ đau nơi chính mình. Khi quán chiếu một cách sâu sắc, ta
thấy rằng người đó cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt. Nếu
chúng ta có thể hiểu được khổ đau của chính mình và của người khác thì
ta sẽ không còn có ý định trừng phạt ai cả mà chỉ muốn giúp đỡ họ mà
thôi.
Chúng ta có thể áp dụng những phương pháp Bụt dạy để thúc đẩy hòa
giải và mang lại sự hòa hợp trên thế giới. Tại Làng Mai, nước Pháp,
chúng tôi đã từng tài trợ cho các nhóm người Palestine và Israel đến
Làng để thực tập cùng với chúng tôi. Ban đầu những người này có rất
nhiều khó khăn khi thực tập, bởi vì cả hai nhóm đều chứa đầy năng lượng
buồn giận và sợ hãi. Vì vậy trong tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ giới
thiệu với họ phương pháp trở về với chính mình và ôm ấp năng lượng buồn
giận và sợ hãi trong con người họ. Đó chính là thực tập hơi thở quán
niệm thứ tám trong kinh Quán Niệm Hơi Thở: “Thở vào, tôi làm cho các tâm
hành trong tôi an tịnh. Thở ra, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an
tịnh”. Trong suốt tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ cho họ phương pháp buông
bỏ những căng thẳng và những niềm đau trong cơ thể. Chúng tôi đã cùng họ
thực tập hơi thở có ý thức và đi thiền hành để chế tác niềm vui và hạnh
phúc. Bắt đầu sang tuần thứ hai, cả hai nhóm đều được hướng dẫn phương
pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Chúng tôi đã mời nhóm người
Palestine nói lên những nỗi khổ, niềm đau mà họ đã trải qua. Chúng tôi
cũng khuyên họ chỉ nói lên niềm đau của mình mà không trách móc hay buộc
tội, để cho phía bên kia có thể lắng nghe và hiểu được họ. Nhóm người
Israel chỉ ngồi yên và lắng nghe. Họ không ngắt lời ngay cả khi họ nhận
thấy có những tri giác sai lầm. Họ biết rằng sau này họ sẽ có dịp cung
cấp thông tin để giúp cho người Palestine điều chỉnh lại nhận thức mình.
Phương pháp lắng nghe này đã mang lại những kết quả thật kỳ diệu. Lần
đầu tiên, phía bên này đã nhận ra là những người ở phía bên kia cũng
chịu nhiều khổ đau không kém gì họ. Khi hiểu được như vậy thì tự nhiên
lòng xót thương bắt đầu tràn ngập trong trái tim họ và họ bớt khổ ngay
tức thì.
Sau hai tuần thực tập tại Làng Mai, cả hai nhóm người Palestine và
Israel đều cảm thấy vơi bớt rất nhiều khổ đau trong lòng. Đến tuần thứ
ba, cả hai nhóm có thể chia sẻ với nhau và nắm tay nhau cùng đi thiền
hành. Họ đã hứa rằng khi trở về Trung Đông, họ sẽ tổ chức những hoạt
động để những người khác có thể đến và học cách chuyển hóa khổ đau. Ở
Pháp, hầu như năm nào chúng tôi cũng tổ chức những khóa tu như vậy.
Trong xã hội của chúng ta hiện đang có rất nhiều sự kỳ thị, chia rẽ,
bạo động và căm thù. Những vấn đề này chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự
thực tập lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái. Nếu ta đang tu tập
trong một tăng thân theo truyền thống đạo Bụt, ta có thể tìm cách tổ
chức như thế nào để tạo ra một môi trường mà các nhóm người có mâu
thuẫn, xung đột có thể đến và thực tập lắng nghe nhau. Tôi cho rằng sở
dĩ các cuộc đàm phán về hòa bình thường không mang lại kết quả là vì các
cuộc đàm phán đó không được tiến hành theo phương pháp mà Bụt đã chỉ
bày. Khi các bên bước vào bàn đàm phán về hòa bình, họ thường muốn bàn
về vấn đề ngay lập tức, trong khi đó các bên tham chiến vẫn còn mang đầy
kỳ thị và căm thù. Với sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ, họ không thể nào
có niềm tin đối với nhau. Và vì vậy các cuộc đàm phán thường lâm vào
tình trạng khó khăn. Theo phương pháp của đạo Bụt, khi các bên bước vào
đàm phán về hòa bình, chúng ta không nên để họ bàn vào vấn đề ngay lập
tức mà ta nên dành hai hoặc ba tuần để các bên thực tập buông bỏ những
căng thẳng trong thân và tâm của họ. Ta có thể sử dụng bài thực tập thứ
tám trong Kinh Quán Niệm Hơi thở để giúp những người đó buông bỏ sự căng
thẳng và làm lắng dịu năng lượng sợ hãi và giận dữ trong họ.
Chúng ta cần có những người nắm được hơi thở chánh niệm có mặt để yểm
trợ, đóng góp năng lượng bình an và định tâm cho các bên xung đột.
Chúng ta cần hướng dẫn cho các bên xung đột cách thức làm lắng dịu cơ
thể và cảm xúc của họ. Và khi cả hai bên đều đã bình tĩnh hơn, lắng dịu
hơn, chúng ta có thể mời họ thực tập lắng nghe nhau. Cả hai phía đều đã
chịu quá nhiều khổ đau, dù họ thuộc phe thân chính phủ hay phe đối
nghịch.
Chúng ta cần ít nhất là một tuần hoặc mười ngày để cả hai bên có thể
nói lên những khổ đau mà họ đã phải trải qua. Nếu cả hai phía đều hiểu
được niềm đau của nhau thì họ sẽ vơi bớt khổ đau rất nhiều. Khi tình
thương yêu, lòng xót thương phát khởi trong trái tim của những người
tham gia xung đột thì việc tiến hành đàm phán để đi đến hòa bình sẽ dễ
dàng hơn rất nhiều.
Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều khi giúp những người Palestine và
Israel xích lại gần nhau. Tôi tin rằng khi sử dụng những giáo lý và
phương pháp Bụt dạy, chúng ta có thể giúp mọi người hòa giải với nhau.
Chúng ta có thể đóng góp vào sự hòa hợp và thống nhất của quốc gia.
Trong đạo Bụt, có một giáo lý gọi là Vô Phân Biệt [Tương Tức (BTV)].
Theo giáo lý này, trong tình thương chân thật không còn tồn tại bất kỳ
sự phân biệt nào. Khi có tình thương chân thực thì khổ đau của mình cũng
là khổ đau của người, hạnh phúc của mình cũng là hạnh phúc của người.
Trong tình thương chân thật, không còn tồn tại hạnh phúc của cá nhân hay
khổ đau của cá nhân. Đức Thế Tôn đã dạy cho chúng ta về trí tuệ Vô Phân
Biệt. Khi tôi nhìn vào bàn tay phải của tôi, tôi có thể thấy trí tuệ Vô
Phân Biệt. Bàn tay phải của tôi chưa bao giờ kỳ thị bàn tay trái. Bàn
tay phải của tôi đã vượt thoát những mặc cảm hơn, kém và bằng. Bàn tay
phải đã giúp tôi viết xuống các bài thơ tôi làm. Tôi còn sử dụng bàn tay
phải để viết thư pháp. Tuy vậy, bàn tay phải của tôi không cảm thấy
mình quan trọng hơn bàn tay trái. Nó chưa bao giờ nói: “Tay trái, anh
chẳng có ích lợi gì cả. Nhìn tôi đây này, tôi đã viết tất cả những bài
thơ này”. Còn bàn tay trái của tôi, nó cũng chẳng cảm thấy mặc cảm gì
cả. Đó là lý do tại sao bàn tay trái của tôi không hề khổ đau tí nào. Cả
hai bàn tay tôi luôn luôn sống chung với nhau rất hòa hợp.
Một ngày nọ, tôi đang tìm cách treo một bức tranh lên tường. Bàn tay
trái của tôi cầm một cây đinh và tay phải tôi cầm một cái búa. Ngày hôm
đó tôi không được khéo léo cho lắm. Thay vì đóng vào cây đinh, tay phải
cầm búa lại đập vào một ngón tay của bàn tay trái. Ngay lúc đó, bàn tay
phải hạ búa xuống và ôm lấy bàn tay trái mà không hề có sự phân biệt, kỳ
thị nào cả, bởi vì nỗi đau của bàn tay trái cũng là nỗi đau của bàn tay
phải. Tay trái của tôi hiểu được điều đó, cho nên nó không hề giận bàn
tay phải. Tay trái của tôi không nói rằng: “Tay phải, anh đã làm cho tôi
đau. Tôi phải đòi lại công bằng. Đưa búa đây cho tôi!”. Đó là lý do tại
sao bàn tay phải và bàn tay trái của tôi luôn sống chung với nhau một
cách hòa hợp. Bàn tay phải nhìn thấy bàn tay trái trong chính mình và
ngược lại. Đó chính là trí tuệ Vô Phân Biệt, là tuệ giác Bất Nhị.
Khi những người thực tập đạo Bụt theo truyền thống Bắc Tông nhìn sâu
vào giáo lý của truyền thống Nam Tông, họ sẽ thấy Bắc Tông trong Nam
Tông. Với sự thực tập nhìn sâu, họ sẽ thấy rằng tất cả những tư tưởng
siêu việt trong các kinh điển Đại thừa đều đã có trong những giáo lý
tinh yếu của đạo Bụt nguyên thủy. Họ sẽ nhìn thấy Bắc Tông trong Nam
Tông và ngược lại. Có một cách nhìn gọi là cách nhìn tương tức. Khi nhìn
vào một bông hoa, ta sẽ thấy bông hoa được làm từ những yếu tố không
phải là bông hoa. Nhìn thật sâu vào bông hoa, ta sẽ thấy được ánh nắng
mặt trời. Nếu không có ánh nắng mặt trời thì bông hoa không thể sống
được và vì vậy có thể nói bông hoa được làm từ những yếu tố không phải
là bông hoa, trong đó có ánh nắng mặt trời. Nhìn sâu vào bông hoa ta còn
thấy những đám mây. Ta biết rằng nếu không có mây thì sẽ không có mưa
và hoa sẽ không thể sống được nếu thiếu nước. Và vì vậy những đám mây
cũng là một yếu tố không phải là bông hoa. Nếu chúng ta lấy đi tất cả
những yếu tố không phải là bông hoa thì bông hoa không thể nào tồn tại
được. Do vậy ta có thể nói một bông hoa được làm từ những yếu tố không
phải là hoa.
Ta cũng có thể sử dụng cách nhìn đó khi nhìn vào đạo Bụt. Đạo Bụt là
một đóa hoa rất đẹp và được hình thành từ những yếu tố không phải là đạo
Bụt. Thực tập đạo Bụt, ta có thể tiếp cận được với trí tuệ của tất cả
các truyền thống khác, đó là lý do tại sao đạo Bụt hoàn toàn không mang
tính chủ thuyết, không phải là một đức tin để tôn thờ và bảo vệ. Nếu ta
theo truyền thống Bắc Tông, ta có thể nói Bắc Tông là một bông hoa đẹp,
nhưng bông hoa đẹp đó cũng được làm từ những yếu tố không phải là Bắc
Tông. Nếu ta lấy đi tất cả những yếu tố không phải là Bắc Tông thì
truyền thống Bắc Tông sẽ không thể tồn tại. Ta cũng có thể nói tương tự
như vậy với truyền thống Nam Tông.
Khi ta trồng hoa sen, ta biết rất rõ rằng chúng ta cần phải có bùn để
nuôi hoa sen. Khi chúng ta nhìn vào hoa sen, chúng ta nhìn thấy những
yếu tố không phải là hoa sen và chúng ta biết rằng bùn là một trong
những yếu tố không phải là hoa sen nhưng lại là một yếu tố thiết yếu để
hoa sen có thể biểu hiện được. Khổ đau của chúng ta cũng có thể xem như
là bùn và hạnh phúc của chúng ta có thể ví như hoa sen. Giữa hạnh phúc
và khổ đau có một mối liên hệ mật thiết và sâu sắc. Chúng ta sẽ có được
trí tuệ vô phân biệt khi chúng ta nhìn sâu vào tự tánh của hoa sen. Khi
chúng ta nhìn thấy yếu tố bùn trong hoa sen, ta sẽ không còn kỳ thị đối
với bùn nữa.
Cũng như vậy, khi nhìn vào một người con, ta sẽ thấy người cha. Đứa
con là sự tiếp nối của người cha. Người con được làm từ những yếu tố
không phải là con, ta không thể lấy yếu tố cha ra khỏi con được. Đó là
lý do tại sao khi nhìn sâu vào đứa con ta có thể thấy người cha và ngược
lại. Khi nhìn như vậy ta sẽ chạm tới được tự tánh vô ngã, ta sẽ có được
trí tuệ vô phân biệt, có được tuệ giác bất nhị. Khi ta nhìn sâu như
vậy, ta sẽ không còn có thể giận cha mình được nữa, bởi vì ta là sự tiếp
nối của cha. Giận cha cũng có nghĩa là ta đang giận chính bản thân ta.
Đó là lý do tại sao tinh thần vô phân biệt trong đạo Bụt lại vô cùng
quan trọng cho một nền hòa bình trên thế giới. Với tuệ giác Vô Phân Biệt
và Bất Nhị, ta sẽ không còn coi ai là kẻ thù nữa. Ta sẽ thấy rằng những
người làm ta khổ cần được giúp đỡ, chứ không đáng bị trừng phạt.
Đạo Bụt là một di sản vô giá đã được trao truyền cho chúng ta từ bao
nhiêu thế hệ đi trước. Nếu chúng ta biết thực tập theo tinh thần Vô Phân
Biệt thì ta có thể đóng góp rất lớn vào sự hòa hợp và hòa giải trong
các quốc gia và trên thế giới. Những giáo lý và phương pháp thực tập của
đạo Bụt vẫn còn mang tính thực tiễn đối với thế giới hiện đại ngày nay.
Chúng ta cần học hỏi và thực tập đạo Bụt như thế nào để có thể giúp
phát triển tuệ giác Vô Phân Biệt và Bất Nhị trong ta.
Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng
ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Nếu ta
biết thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái, ta có
thể tái lập lại sự truyền thông và mang lại hòa bình cho đất nước của
chúng ta cũng như cho thế giới này.
Nhất Hạnh(Pháp thoại của Sư ông Làng Mai tại Đại học Thammasat Thái Lan - đọc được trên Bangkok Post ngày 26.10.2010)
Thích nữ Chân Tại Ngiêm dịch
No comments :
Post a Comment