Trước hết, có lẽ tôi
cần phải thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về
thuyết Tiến Hóa. Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật thiên nhiên
trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được kiểm chứng, phát triển,
từ đó giải thích được nhiều điều trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay,
thuyết Tiến Hóa bao trùm rất nhiều bộ môn khoa học.
Do đó, không ai có
thể tự cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa. Một khó khăn khác tôi
vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ chuyên môn mà tôi
không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt hoặc không biết là đã được dịch
ra tiếng Việt. Vì những lý do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự
hạn trong chủ đề “Nguồn Gốc Con Người:
Thuyết Tiến Hóa”, để bổ túc cho phần trước:
“Nguồn Gốc Vũ Trụ: Thuyết Big Bang.”.
Nhưng ngay khi thu hẹp bài viết trên chủ đề “Nguồn Gốc Con Người:
Thuyết Tiến Hóa”, vì là một bài viết cho quảng đại quần chúng đọc,
cho nên tôi sẽ cố gắng viết thật đơn giản và tránh đi vào chi tiết cũng
như dùng những danh từ chuyên môn trong thuyết Tiến Hóa. Phần tài liệu
cuối sách có thể giúp quý độc giả đi sâu vào những chi tiết, nếu muốn.
Với sự hiểu biết hiện
nay về nguồn gốc con người trên trái đất thì Thuyết Tiến Hóa ngày nay
là một sự kiện vững chắc đã được xác nhận bởi nhiều bộ môn khoa học, và
lý trí. Thuyết Tiến Hóa mà chúng ta hiểu ngày nay là sự tổng hợp
của hàng núi những bằng chứng trong nhiều bộ môn khoa học như Sinh Học,
Sinh Hóa Học, Cổ Sinh Vật Học, Nhân Chủng Học, Di Truyền Học, Khảo Cổ
Học, Vật Lý Học, Vũ Trụ Học v..v.., có những bộ môn mà trong thời của
Darwin chưa được khám phá ra. Xin đừng nhầm lẫn, cho rằng Thuyết Tiến
Hóa là của riêng Charles Darwin. Tư tưởng Tiến Hóa đã có trong nhân
loại từ lâu. Nhưng không ai có thể phủ nhận là Charles Darwin đã lập
thuyết Tiến Hóa một cách khoa học và từ đó, thuyết Tiến Hóa đã được kiểm
chứng và phát triển như ngày nay.
Tuy nhiên, những thắc
mắc muôn đời như: con người từ đâu mà ra, sau khi chết sẽ đi về đâu
v..v.. vẫn là những mối thắc mắc của con người, ngay trong thời đại
này. Và vì vậy, con người, trải qua nhiều thế hệ đã đưa ra những giải
đáp khác nhau, tùy theo mỗi nền văn hóa. Những giải đáp thuộc lãnh
vực siêu hình dần dần mất đi tính cách thuyết phục, vì không còn hợp với
trình độ hiểu biết của con người ngày nay. Tri thức con người phát
triển và tiến bộ, từ đó khoa học cũng phát triển theo và con người không
còn tin vào những thuyết lý không thể kiểm chứng. Con người phải nhờ
đến khoa học để tìm hiểu về vũ trụ, nhân sinh. Khoa học không phản đối
niềm tin của bất cứ ai, mà chỉ tìm cách giải thích những thắc mắc trong
thế giới vật lý của chúng ta, và khoa học sẵn sàng loại bỏ những giải
thích nào không còn hợp thời, không còn đúng với những khám phá mới
trong khoa học.
Cho tới ngày nay,
tuyệt đại đa số trong giới khoa học đã chấp nhận thuyết Big Bang nói về
nguồn gốc của vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa nói về nguồn gốc của con người.
Chấp nhận cho đến khi khám phá ra những bằng chứng mới chứng tỏ toàn bộ
thuyết Big Bang và toàn bộ Thuyết Tiến Hóa không còn đúng. Các khoa học
gia công nhận là trong thuyết Big Bang cũng như trong Thuyết Tiến Hóa
còn có một số nhỏ những chi tiết chưa giải đáp được. Nhưng xét về toàn
bộ thì những thuyết này có tính cách thuyết phục nhất và các khoa học
gia hi vọng trong tương lai, gần hay xa còn là một ẩn số, họ sẽ tìm ra
những manh mối để giải thích dứt khoát chúng. Những khám phá mới trong
nhiều bộ môn khoa học đã chứng minh được rằng: Không còn nghi ngờ gì
nữa, loài người chúng ta đã tiến hóa từ các dạng sống thấp hơn, tất cả
đều có chung một nguồn gốc xa, rất xa, và do đó liên hệ đến mọi sinh vật
trên trái đất, và tất nhiên liên hệ tới cả vũ trụ này.
1. ĐẠI CƯƠNG THUYẾT TIẾN HÓA.
Khi nói đến thuyết
Tiến Hóa, người ta thường nghĩ đến Charles Darwin. Thật ra thì Darwin
không phải là người đầu, mà cũng không phải là người cuối, làm cho
thuyết Tiến Hóa trở thành một sự kiện khoa học như hầu hết các khoa học
gia và giới trí thức đã công nhận ngày nay. Vì thế cho nên tôi nghĩ có
lẽ tôi cũng nên nhắc qua đến những tác giả đã có những tư tưởng về tiến
hóa trước Darwin, sau đó sẽ viết về thuyết Tiến Hóa trong việc giải
thích nguồn gốc con người, và sau cùng nói qua về giá trị và chỗ đứng
của thuyết Tiến Hóa ngày nay trong nhân loại, đặc biệt là trong những
giới hiểu biết. Làm công việc này, tôi vấp phải một sự bất ngờ rất thú
vị. Đó là, nhiều tư tưởng trong Phật Giáo đã đi trước và rất phù hợp
với thuyết Tiến Hóa.
Thật ra, nhiều tư
tưởng về tiến hóa đã có trước Darwin. Ngay từ trước thời đại thông
thường ngày nay (B.C.E = Before Common Era), ở Đông phương chúng ta có
thể thấy tư tưởng tiến hóa trong Áo Nghĩa Thư (800 B.C.E) của Ấn Độ,
trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử và sau được phát triển bởi Trang Tử, và
trong Kinh Dịch. Ở Tây phương, chúng ta có thể kể Thales, Anaximander
(học trò của Thales), Xenophanes, Anaxagoras, Empedocles, Aristotle,
Lucretius. Trong thời đại thông thường ngày nay (C.E = Common Era) có
Plotinus (205-270 C.E.), Avicenna (980-1037), Leonardo da Vinci
(1452-1519), Carolus Linnaeus (1707-1778), Georges Louis Leclearc, Comte
de Buffon (1707-1788), Erasmus Darwin (1731-1802), Jean Baptiste de
Lamark (1774-1829), đó là chỉ kể những tên chính. Nhưng đặc biệt nhất
là nhiều tư tưởng trong Phật Giáo, nhất là thuyết Duyên Sinh hay Duyên
Khởi, đã đi trước và rất phù hợp với thuyết Tiến Hóa,. Ngay cả những
phương pháp tu tập trong Phật Giáo cũng là những quá trình tiến hóa.
Nhưng hiển nhiên không có cách nào tôi có thể đi vào chi tiết của những
chủ đề này trong một bài viết, và ngay trong cả một cuốn sách.
Sau
Darwin thì những đóng góp trong mọi lãnh vực khoa học để kiện toàn
thuyết Tiến Hóa thì quá nhiều, không kể sao cho hết. Vài người được
biết đến nhiều nhất là Teilhard de Chardin, Linh mục dòng Tên;
Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard; Stephen Jay Gould,
Giáo sư các môn Cổ Sinh Vật Học và Lịch Sử Khoa Học, đại học
Harvard; Richard Leaky, nhà Cổ Sinh Vật Học, Giám đốc Chương
trình nghiên cứu những sự sống hoang dại ở Kenya, và hàng trăm khoa học
gia khác trong đủ mọi bộ môn. Thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng qua
hàng núi những bằng chứng trong hầu hết các bộ môn khoa học. Nhưng căn
bản thuyết Tiến Hóa của Darwin về loài người là Tiến Hóa Sinh Học.
Như
chúng ta đã biết, nhiều tư tưởng Tiến Hóa đã có từ trước thời Darwin
nhung phải tới năm 1859 Darwin mới đưa ra nền tảng khoa học của thuyết
Tiến Hóa được trình bày trong cuốn Về
Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên
(On the Origin of Species By Means of Natural Selection) và
sau đó cuốn Nguồn Gốc Con Người
(The Descent of Man) năm 1871. Nền tảng khoa học của thuyết Tiến Hóa đã
trở thành một cột trụ mà hầu hết các công cuộc khảo cứu trong nhiều bộ
môn khoa học đã xoay quanh nó, và càng ngày càng làm cho nền tảng này
thêm vững chắc, đúng như nhận định vô cùng chính xác của Linh mục dòng
Tên Teilhard de Chardin trong cuốn “The Phenomenon of Man”:
Thuyết Tiến Hóa là một điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả
thuyết, mọi hệ thống [kể cả hệ thống Ki-tô Giáo] phải cúi đầu
trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là
đúng. [Gần đây, có một “lý luận” mà Ki-tô Giáo đưa ra là
thuyết Tiến Hóa nằm trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ki-tô Giáo
đã nổi tiếng là chống không được thì nhận vơ làm của mình, cũng như nền
Thần Học Ki-tô Giáo Theo Cung Cách Á Châu đã đang cố sức lấy những cái
hay của các tôn giáo Đông Phương, xào xáo biến đổi và nhận vơ làm của
mình]
Then chốt thuyết Tiến
Hóa của nhà lập thuyết Charles Darwin là ở phần cuối tên cuốn sách:
Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of
Species By Means of Natural Selection): “Chọn Lọc Tự Nhiên”. Có lẽ tôi
cần phải giải thích chút ít về ý nghĩa của “Chọn Lọc Tự Nhiên”. “Chọn
Lọc Tự Nhiên” đặt căn bản trên bốn đề xuất:
1. Các sinh vật sinh sản con cái, chỉ có một số có thể sống còn và tiếp tục truyền giống.
2. Những sinh vật sống còn có khuynh hướng thích ứng hơn với những
hoàn cảnh xung quanh.
3. Những đặc tính của cha mẹ có tính di truyền và thể hiện trong con
cái.
4. Do dó, từ thế hệ này qua hàng trăm ngàn thế hệ khác, dòng giõi
những sinh vật có khả năng thích ứng hơn sẽ tồn tại và truyền xuống các
đời sau những sắc thái để thích ứng với hoàn cảnh xung quanh.
Khi các chủng loại
truyền giống, bao giờ cũng có những đột biến di truyền (genetic
mutation), tuy rất nhỏ, từ thế hệ này sang thế hệ khác, biến thiên trên
kích thước, sức mạnh, hình dạng, sự thông minh, sự chịu đựng v..v.. Sự
tiến hóa bao giờ cũng đi theo chiều từ thấp tới cao, từ những dạng sống
thấp của các sinh vật lên những dạng sống cao hơn dần, cho tới loài
người. Do đó, các sinh vật tồn tại hoặc tuyệt chủng là do khả năng tự
thích nghi với môi trường xung quanh, và mọi sinh vật, trong đó có con
người, đều liên hệ với nhau vì cùng tiến hóa từ những mầm sống xa xưa.
Thuyết này là kết luận khoa học của sự quan sát lâu dài của Darwin về sự
biến thiên của một số sinh vật. Và trong 150 năm nay, kể từ khi cuốn
sách trên ra đời, dựa vào ý kiến trong thuyết Tiến Hóa trên, nhiều tiến
bộ rất ngoạn mục đã đạt được trong nhiều bộ môn khoa học, những bộ môn
mà chính Darwin cũng không hề biết đến vì chúng chưa được khám phá ra,
những tiến bộ đã làm cho thuyết Tiến Hóa chính xác về chi tiết hơn và
vững vàng hơn. Ngày nay, các chuyên gia về sinh học và trong nhiều
ngành khoa học khác đã chấp nhận Tiến Hóa là một sự kiện (fact), tuy vẫn
còn tranh luận về một số chi tiết về vấn đề tiến hóa như thế nào (how),
nghĩa là về cơ chế tiến hóa hay sự vận hành của tiến hóa (mechanism of
evolution).
Tuy nhiên, đọc cuốn
Nguồn Gốc Các Chủng Loại, chúng ta thấy Darwin chưa nói đến Nguồn
Gốc Con Người, tác giả chỉ đưa ra một nhận định: “Rồi ánh sáng sẽ soi
sáng nguồn gốc và lịch sử của con người” (Light will be thrown on
the origin of man and his history). Nhưng đọc cuốn Nguồn Gốc Các
Chủng Loại thì ai cũng có thể thấy rằng thuyết Tiến Hóa của Darwin
áp dụng cho mọi chủng loại có thể dễ dàng áp dụng cho loài người. Và
đây chính là điều mà từ đó Darwin đã gặp mọi sự chống đối từ phía những
người tin vào con người là do một Thượng đế nào đó sáng tạo ra.
Trong cuốn Nguồn
Gốc Con Người (The Descent of Man), Charles Darwin viết:
Kết luận chính đạt
tới trong tác phẩm này, rằng con người có nguồn gốc từ một dạng sống nào
đó thấp hơn, sẽ làm cho nhiều người rất khó chịu, tôi rất tiếc phải nghĩ
như vậy. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa là chúng ta đã là hậu duệ của
những kẻ mọi rợ. 2
Nếu chúng ta dùng
hình ảnh của một cái cây, cây của sự sống (tree of life), còn được biết
dưới tên “cây tiến hóa” (tree of evolution) để biểu thị tất cả sự sống
trên thế gian có cùng một nguồn gốc, thì nhân loại chỉ là một nhánh nhỏ
trên cái cây đó trong số vô vàn nhánh khác nhau trên cái cây đó. Điều
này đã được
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận
diễn giải đại cương trong cuốn
“Sự Vô Tận Trong Lòng Bàn
Tay” (L'Infini Dans La
Paume de la Main”) như sau:
"Tiến hóa từ những cát bụi
của những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với những
con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa tỏa mùi thơm"
(Poussières
d'étoiles, nous partageons la même histoire cosmique avec les lions des
savanes et les fleurs de lavande).
Mầm của sự sống đã có
từ khi vũ trụ này hình thành khoảng 15 tỷ năm trước từ một Big Bang, và
rồi Thái Dương Hệ thành hình cách đây khoảng 5 tỷ năm trong đó có trái
đất mà chúng ta đang sống trên đó. Nhưng mãi gần đây, khoảng 5 triệu
năm trước, cái cây của sự sống trên trái đất mới tách ra một nhánh đặc
biệt, nhánh của loài người. Sự kiện khám phá bởi khoa học này đã kiểm
chứng ý tưởng tổng quát về Tiến Hóa của Charles Darwin trong cuốn
Nguồn Gốc Các Chủng Loại và nhất là cuốn Nguồn Gốc Con Người.
Loài người có cùng chung một cơ chế vận hành căn bản về di truyền với
tất cả các chủng loại khác, định hình bởi những lực tiến hóa.
Đây là một sự kiện đã được kiểm chứng. Tất cả những lý thuyết khác
về nguồn gốc con người, nhất là từ những tín điều tôn giáo mà còn một số
người vẫn còn tin cho đến ngày nay, đều chỉ là huyền thoại.
Sự kiện trên bắt
nguồn từ sự khám phá ra “bộ gen” (genome), còn được biết là “mật mã di
truyền” (genetic code) trong cơ thể con người. Điểm kỳ diệu trong tư
tưởng của Darwin là khi hoàn thành những tác phẩm để đời trên, Darwin
không hề có một ý niệm gì về “gen” hay DNA (Deoxyribose Nucleic
Acid), một hóa chất mà cho tới năm 1953 các khoa học gia mới biết
là giữ vai trò quyết định trong cơ chế di truyền. Từ đó, các nhà Di
Truyền Học đã so sánh DNA trong các dân số khác nhau trên thế giới, cộng
với những kết quả đã tìm thấy của các nhà khảo cứu Cổ Sinh Vật Nhân
Chủng Học (paleoanthropologists) về các di vật của người đã hóa thạch
(fossils) cùng vài bộ môn khoa học khác như sinh học, sinh hóa học
v..v.., ngày nay các khoa học gia đã có thể biết được khá chính xác về
nguồn gốc con người, nguồn gốc các sắc dân trên thế giới.
Những hiểu biết ngày
nay về “bộ gen” (genome) đã cho phép chúng ta giải thích được nguồn gốc
của con người, lịch sử loài người và bản chất con người. Những khám phá
khoa học này lẽ dĩ nhiên không phải là được tất cả mọi người chấp nhận.
Edward O. Wilson đã đưa ra một nhận định rất ý nhị: “Có vẻ như là đầu
óc con người (Ki Tô) đã tiến hóa để tin vào các thần chứ không tiến hóa
để tin vào sinh học”
(It seems that
the human (Christian) mind evolved to believe in gods. It did not
evolve to believe in biology). Sinh học, cũng như mọi bộ môn
khoa học khác, không thích hợp để cho những tín đồ Thần giáo tin.
Có lẽ chúng ta cũng
nên biết chút ít về “bộ gen” trong cơ thể con người. “gen” là những đơn
vị di truyền trong mọi sinh vật. “Bộ gen” (genome) của con người là một
tập hợp đầy đủ những “gen” của con người, được gói ghém thành 23 cặp
riêng biệt sắc tố (chromosome). Trong số 23 cặp này, 22 cặp được đánh
số theo kích thước, số 1 lớn nhất, số 22 nhỏ nhất. Cặp thứ 23 còn được
gọi là “sắc tố định giới tính” (sex chromosome): trong nữ giới gồm có
hai sắc tố X lớn, kích thước trong khoảng giữa số 7 và 8, và trong nam
giới gồm một sắc tố X và một sắc tố nhỏ, Y. Ngày nay, các khoa học gia
đã biết rõ, trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của người cha hợp
với sắc tố X của người mẹ thì đứa con sinh ra sẽ là con gái (X,X). Nếu
sắc tố Y của người cha hợp với sắc tố X của người mẹ thì đứa con sinh ra
sẽ là con trai (X,Y). Khám phá này đương nhiên đã bác bỏ huyền thoại
Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, bởi phép của Đức Chúa Thánh Thần
(ngôi ba thiên chúa) alias Thánh Linh (Holy Spirit) alias
Thánh Ma (Holy Ghost) [Theo Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo]. Bởi vì,
bằng phép lạ nào đi chăng nữa, nếu không có tinh khí của đàn ông trong
đó có sắc tố Y, thì Giê-su chỉ có thể là con gái. Đây là một sự kiện
khoa học, sự kiện này chỉ bác bỏ một huyền thoại cổ xưa chứ không bác bỏ
niềm tin vào huyền thoại này của bất cứ ai. Khoa học chỉ có mục đích
gần sát với Phật Giáo: “Như Thực Tri Kiến”, và khoa học không bắt buộc
ai phải tin vào những khám phá của khoa học.
Trong cơ thể con
người có khoảng một triệu triệu (trillion) tế bào, hầu hết kích thước
nhỏ hơn 1/10 của một milimét (1/10 mm). Trong mỗi tế bào có một nhân.
Trong nhân có hai “bộ gen” (genome) đầy đủ. Một bộ do người cha , và
một bộ do người mẹ truyền xuống. Mỗi “bộ gen” gồm có khoảng 60000 –
80000 “gen” xây dựng trên cùng 23 sắc tố. Trên thực tế, thường có sự
khác nhau vi tế giữa những “gen” của cha và của mẹ, nguyên nhân của, thí
dụ như, màu mắt khác nhau. Mỗi sắc tố là một cặp phân tử dài DNA.
Trong nhiều thập
niên, con người đã dựa nhiều vào những di vật hóa thạch để lại bởi tổ
tiên loài người đã được tìm thấy để tìm hiểu nguồn gốc loài người.
Nhưng những di vật này không đầy đủ và có những quãng cách trong quá
trình Tiến Hóa nên một số nhà bảo thủ Ki Tô Giáo đã dựa vào sự thiếu sót
này để tấn công, bác bỏ thuyết Tiến Hóa, và lấp vào những khoảng cách đó
bằng sự sáng tạo của Thượng đế của họ. Tiến thêm một bước trong công
việc đi tìm về nguồn gốc của con người, khoa học gia John Joe McFadden
trong cuốn “Quantum Evolution”, đề nghị, trang 72: “Để đi sâu
vào lịch sử của sự sống, chúng ta cần đào sâu vào DNA thay vì vào các
hòn đá (những sinh vật hóa thạch)”
[To
go deeper into the history of life we need to dig into DNA, rather than
rocks]. DNA (DeoxyriboNucleic
Acid) là hóa chất trong nhân của mỗi tế bào trong cơ thể của chúng ta và
có tác dụng truyền đi những huấn thị truyền giống để tạo thành sinh vật
từ buổi sơ khai đến ngày nay. Và quả vậy, trong vòng 20 năm gần đây,
các khoa học gia đã tìm thấy những dấu tích cổ xưa của loài người trong
DNA của những người hiện sống ngày nay.
Mật mã di truyền của
loài người, hay “bộ gen” (genome), thì hoàn toàn y như nhau tới 99.9%
trên khắp thế giới [The human genetic code, or genome, is 99.9%
identical throughout the world]
Sự sai biệt còn lại,
vào khoảng 0.1% , trong DNA là nguồn gốc của sự khác biệt cá nhân – thí
dụ màu mắt hay cơ thể dễ bị nhiễm bệnh, và có những DNA vô dụng, không
có một tác dụng gì. Bởi vậy, Phillip Kitcher, Giáo sư Đại học Columbia,
đã viết: “Rất nhiều DNA trong những tế bào không cần đến – chỉ là
đồ vô dụng. Nếu đó là sự “thiết kế thông minh” [của
Thượng đế] thì Thượng đế cần phải trở lại trường học” (A
lot of the DNA in there is not needed – it’s junk. If it’s
“intelligently designed”, then God needs to go back to school)
Trong quá trình tiến
hóa, một sự đột biến vô hại (a harmless mutation) có thể xảy ra trong
một trong những DNA vô dụng này, rồi truyền xuống cho tất cả các hậu
duệ. Nhiều thế hệ sau, thấy cùng một sự đột biến, gọi là dấu tích
(marker), trong DNA của hai người thì chúng ta biết rằng hai người đó có
cùng một tổ tiên. So sánh những dấu tích này trong rất nhiều dân tộc
khác nhau, các khoa học gia có thể tìm ra dấu vết của những liên hệ tổ
tiên. Trong hầu hết “bộ gen”, những sự thay đổi vi tế này thường không
rõ rệt khi “bộ gen” của cha hợp với “bộ gen” của mẹ để sinh con. Nhưng
có hai nơi trong các “bộ gen” thường xuyên duy trì những sự thay đổi vi
tế này. Một gọi là “mitochondrial DNA” (mtDNA) được truyền xuống đứa
con nguyên vẹn từ người mẹ, và hầu hết các sắc tố Y, sắc tố quyết định
sinh con trai, được người cha truyền xuống nguyên vẹn cho đứa con trai.
So sánh mtDNA và sắc tố Y của người dân trong nhiều dân tộc khác nhau,
các nhà di truyền học đã có thể biết được đại khái khi nào thì loài
người bắt đầu tách ra thành một nhánh riêng trên cái cây của sự sống hay
cây tiến hóa.
Tìm hiểu về nguồn gốc
con người, không chỉ là các nhà di truyền học, mà các khoa học gia đã
phối hợp kết quả nghiên cứu trong ít nhất là 7 ngành khoa học có liên hệ
với nhau và hỗ trợ nhau: Cổ Sinh Vật và Nhân Chủng Học
(Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology), Di Truyền Dân Số
Học (Population genetics), Lịch Sử Ngôn Ngữ Học (Historical
linguistics), ngành khảo cứu về các Động Vật Linh Trưởng
(Primatology), Nhân Chủng Xã Hội (Social Anthropology), và
Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary Psychology). Từ những kết quả nghiên
cứu này, điều rõ ràng là, cũng như mọi vấn đề khác trong sinh học, quá
khứ và hiện tại của giống người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của
Tiến Hóa. [Like everything else in biology, the human past and present
are incomprehensible except in the light of evolution. Wade, p. 6]
Sự kiện là, ngày nay
khoa học đã giải thích được những sắc thái của các sinh vật, không những
chỉ dựa trên ý tưởng căn bản về sự chọn lọc tự nhiên (natural selection)
của Darwin, mà còn dựa trên những quá trình sinh học mà chính Darwin
cũng không biết tới vì chưa được khám phá ra và phát triển, thí dụ như
sự chuyển giao các gen (gene transfer), ngành khảo cứu về các sinh vật
sống chung với nhau (symbiosis), sự xếp đặt lại các nhiễm sắc tố
(chromosomal rearrangements), và hoạt động của các gen điều hòa (action
of regularor genes) v..v.. Kết quả là, sự phân tích hiện đại về các
gen đã cung cấp những bằng chứng minh xác lý thuyết của Darwin là mọi
chủng loại sinh vật trong đó có loài người đều được tiến hóa từ cùng
những chủng loại tổ tiên (ancestral species).
Những kết quả nghiên
cứu về “bộ gen “ của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người
(ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi (orangutan), vượn (chimpanzee), và
“bộ gen” của người cho thấy giữa người và vượn, 99% của “bộ gen” y hệt
nhau (identical). Và từ những kết quả này, đi ngược thời gian, các khoa
học gia đã biết được là khoảng 5 triệu năm trước, nhánh loài người đã
tách ra khỏi nhánh những con khỉ không đuôi trên cái cây tiến hóa. Sau
khi tách ra thành một nhánh riêng, loài người nguyên thủy tiến hóa dần
dần thành động vật đi hai chân và phát triển thành da đen [bắt đầu ở Phi
Châu], mất đi lông trên người, và bộ óc lớn dần cho đến kích thước ngày
nay. Rồi cách đây khoảng 50000 năm, ngôn ngữ bắt đầu phát triển, giúp
cho loài người sống thành những bộ lạc, cộng đồng v..v.., và bắt đầu di
dân ra ngoài Phi Châu. Đó là đại khái về nguồn gốc con người.
Ngoài ra, những công
cuộc khảo cứu mới nhất về những con bọ (fruit flies), chương trình khảo
cứu “evo devo” [evolutionary development biology] trong sinh học về quá
trình phát triển tạo ra cơ thể sinh vật và thay đổi chúng qua thời gian
[đại học Wisconsin-Madison] đã chứng tỏ rõ ràng là loài người có cùng
họ hàng không chỉ với những loại khỉ mà còn với những con bọ, con sâu
trong quá khứ xa nữa (Analysis of the genes that build our bodies
show our clear skinship not just to the apes but all the way back to
bugs, worms and beyond); rồi chương trình điện toán Avida về các sinh
vật tượng trưng bằng số (digital organisms) ở đại học Michigan, Avida
không phải là sự tái tạo tiến hóa trên máy điện toán mà chính là hiện
tượng tiến hóa (Avida is not a simulation of evolution; it is an
instance of it); và nhiều khám phá mới trong mọi ngành khoa học đã càng
ngày càng cho thấy Tiến Hóa không còn là một lý thuyết mà là một sự
kiện. Kết luận: Không còn nghi ngờ gì nữa, thuyết Tiến Hóa ngày nay
đã không còn là một thuyết, mà đã trở thành một sự kiện.
2. VÀI NHẬN ĐỊNH NGÀY NAY VỀ
THUYẾT TIẾN HÓA.
Thuyết Tiến Hóa đã
trở thành một sự kiện, tuy nhiên, một số ốc đảo cuồng tín trong Ki Tô
Giáo vẫn còn tiếp tục chống đối thuyết Tiến Hóa, định thay thế thuyết
Tiến Hóa bằng những sản phẩm Thần Học hạ đẳng bắt nguồn từ niềm tin vào
sự “sáng tạo” của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo như “Khoa học Sáng tạo”
(Creation Science) hay “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent design), nhưng
tất cả đều đã thất bại. Ki Tô Giáo ngày nay đang cố gắng đưa ra những
ngụy thuyết để hòa hợp với thuyết Tiến Hóa. Một trong những ngụy thuyết
này là cho rằng thuyết Tiến Hóa nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, cố
tình quên rằng Thánh Kinh đã viết rõ, sau khi sáng tạo ra vạn vật Thiên
Chúa đã tự khen là những sản phẩm sáng tạo của mình đều rất tốt đẹp
(very good) cho nên không cần phải thay đổi gì nữa, vì là sản phẩm sáng
tạo của một bậc toàn trí toàn năng, và con người đã được sáng tạo ra
theo hình ảnh của thiên chúa... Một trong những ngụy thuyết này là của
Giáo hoàng John Paul II. Chúng ta biết rằng Giáo hoàng John Paul II đã
chính thức công nhận trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ
và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người. Nhưng để vớt vát mặt mũi cho
Thiên Chúa của Ngài, ngày 22 tháng 10, 1996, trong một thông điệp cho
Hàn Lâm Viện Khoa Học của Giáo hoàng (Pontifical Academy of Sciences),
Ngài lý luận: “Giữa những con khỉ tổ tiên và con người hiện đại, có
một khoảng bất liên tục về bản thể, một khoảng trong đó Thiên Chúa đã
chích vào giòng giống các động vật một linh hồn của người” (Matt
Ridley, p. 24: Between ancestral apes and modern human beings, there
was an “ontological discontinuity” – a point at which God injected a
human soul into an animal lineage). Ngài hi vọng như vậy có thể hòa hợp
thuyết sáng tạo với thuyết Tiến Hóa. Nhưng các khoa học gia lại cho
rằng cái bước nhảy vọt bản thể ấy là lúc mà có thể là 2 sắc tố của loài
khỉ hợp nhất với nhau và những “gen” cho linh hồn nằm ngay khoảng giữa
sắc tố số 2 (Matt Ridley, Ibid.,: Perhaps the ontological leap came at
the moment when two ape chromosomes were fused, and the genes for the
soul lie near the middle of Chromosome 2)
Trước hàng núi những
bằng chứng khoa học về thuyết Tiến Hóa, một số nhân vật có uy tín trong
lãnh vực tôn giáo như Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục , Mục sư, học giả
v..v.. cũng phải cúi đầu trước thuyết Tiến Hóa, khoan kể đến giới khoa
học gia đã chấp nhận thuyết Tiến Hóa từ trên trăm năm nay rồi. Sau đây
chúng ta hãy đưa ra nhận định của một số nhân vật tôn giáo cũng như khoa
học về Thuyết Tiến Hóa nói chung, trước những hiểu biết của chúng ta về
Thuyết Tiến Hóa, và trước những bằng chứng trong khoa học:
1. Giáo Hoàng John
Paul II phát biểu năm 1996:
Thân xác con
người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết
quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới
nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả
thuyết. 3
2. Linh mục dòng
Tên Teilhard de Chardin trong
The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một thuyết,
một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một điều
kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi đầu
trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là
đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự kiện, một đường
cong mà mọi đường thẳng phải theo nó...
4
3.
Mục sư Ernie Bringas
trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of
Biblical Authority:
Thuyết Tiến Hóa là
một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con
người. Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm
về sự tiến hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không
còn là một "thuyết" theo nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý
khoa học đặt căn bản trên rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi
nữa. 5
4. Giám mục John
Shelby Spong trong cuốn Why Christianity Must Change or Die:
Thuyết Tiến Hóa
làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền
thuyết. Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và
ngày nay vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế
giới để chống đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao giờ
thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài
từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm. Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân
lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn
thể nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị một đòn khai
tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do những người bảo vệ
Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo. 6
5. Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard, trong cuốn
What Evolution Is?:
Tiến Hóa không chỉ đơn thuần
là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên của một quá
trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có
thể chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể
phủ bác được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã
được khám phá ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến
hóa, thật là lạc dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa
không còn là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện. 7
6. James Birx
trong Interpreting Evolution:
Tiến Hóa là
một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý trí xác nhận;
nhân loại chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất, thiên
hà này (giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm
trong đó), và cả vũ trụ.
Có một nền thần
học hiện đại nào mà chấp nhận cả hai quan điểm về vũ trụ và thuyết Tiến
Hóa trong một cách nhìn khoáng đạt và không có huyền thoại về thế giới?
Cuối cùng thì tín lý mù quáng của đức tin tôn giáo với những câu chuyện
đã lỗi thời và những giá trị cận thị thực sự không còn mấy giá trị nữa;
đó chỉ là sự mơ ước từ đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con người
và vào một vũ trụ tâm linh. 8
7. Stephen Jay Gould,
trong phần Dẫn Nhập của cuốn “Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý
Tưởng” (Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer,
một cuốn sách đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền
hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS 8-hour television
series on Evolution):
Khoa học, như
các chuyên gia chúng tôi thường vạch rõ, không thể thiết lập sự thật
tuyệt đối; do đó, những kết luận của chúng tôi luôn luôn là có tính cách
không dứt khoát. Nhưng sự hoài nghi lành mạnh này không cần phải đưa nó
đến độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc chắn nói rằng, một số sự kiện đã
được kiểm chứng với đủ mức tin cậy cho nên chúng tôi có thể coi những sự
kiện này là đúng sự thật trong bất cứ nền văn hóa địa phương nào trên
thế giới.(tính phổ quát (universality) của các sự kiện khoa học. TCN)
Có lẽ tôi không
thể tuyệt đối chắc chắn là quả đất thì tròn thay vì phẳng, nhưng dạng
hình cầu của hành tinh của chúng ta đã được kiểm chứng đủ để cho tôi
không cho phép “cái xã hội của những người tin trái đất phẳng” được
hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của họ, hay hưởng bất cứ khoảng
thời gian nào, trong lớp dạy về khoa học của tôi.
Tiến Hóa,
quan niệm căn bản của mọi khoa học về sinh học, đã được kiểm chứng rất
kỹ, và do đó có thể coi như là đúng với sự thật. 9
3.-
TÓM LƯỢC TỔNG KẾT VỀ CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ.
Ngày nay,
thuyết Big Bang về Nguồn Gốc Vũ Trụ và Thuyết Tiến Hóa về Nguồn Gốc Con
Người hầu như đã được toàn thể thế giới chấp nhận, nhất là trong giới
khoa học và giới trí thức hiểu biết. Sau đây tôi xin trình bày một bảng
tóm lược tổng kết về những hiểu biết mới nhất về vũ trụ và con người.
Tất cả những con số chỉ là ước tính, không phải là những con số chính
xác.
13.7 Tỷ Năm Trước:
Vài giây sau Big Bang,
dương tử (proton) và trung hòa tử (neutron) cùng hiện hữu trong nhân của
các nguyên tử đơn giản như hi-dro-gen. 30000 năm sau, các điện tử
(electrons) bắt đầu quay xung quanh nhân, tập hợp với proton và neutron
thành những nguyên tử (atoms).
13.5 Tỷ Năm Trước:
Những đám mây khí trở
thành vô cùng đặc, tạo thành các sao, họp với nhau thành các thiên hà.
5 Tỷ Năm Trước:
Mặt Trời hình thành
trong Giải Ngân Hà (Milky Way), tạo ra trái đất và các hành tinh, họp
thành Thái Dương Hệ.
4 Tỷ Năm trước:
Các nguyên tử hi-dro-gen
và o-xy-gen nối kết với nhau thành phân tử nước. Nước giúp cho sự tạo
ra những phân tử khác.
3,9 Tỷ Năm trước:
Một loại màng sinh ra
bao quanh những nhóm phân tử và tạo thành những sinh thể đơn tế bào gọi
là vi khuẩn. Các tế bào có tính chất tăng trưởng, tự phân chia, và xuất
hiện trên khắp trái đất.
1 Tỷ Năm Trước:
Những tế bào rong, rêu
(algae) sống cùng với nhau, họp thành loại thực vật đầu tiên. Sự sống
chung này khiến cho mỗi tế bào có một nhiệm vụ riêng biết. Để cho những
nhiệm vụ này không lập đi lập lại, những tế bào phát sinh ra những chất
hormone có thể liên lạc với nhau.
700 Triệu Năm trước:
Nhiều sinh vật đa tế bào
phức tạp được tiến hóa thành, trong đó gồm có con sứa (jellyfish), sinh
vật này phát triển những bắp thịt và thần kinh và các tế bào có thể liên
lạc với nhau hữu hiệu hơn.
570 Triệu Năm Trước:
Những con sứa tiến hóa
thành một loại sâu đầu tiên (flatworm) có những cơ quan như dạ dày và
óc, và một cấu trúc đối xứng (giây thần kinh đi xuống hai bên), khởi đầu
cho những dạng sinh vật cao hơn.
500 Triệu Năm Trước:
Phát sinh sinh vật có
xương sống, một vài sinh vật này là tổ tiên của loài cá mút đá (lamprey)
ngày nay, phát triển ở trong nước.
470 Triệu Năm trước:
Dưới dạng cổ rêu, những
dạng sống đầu tiên rời nước và sống trên đất liền.
100 Triệu Năm Trước:
Loài vật có vú đầu tiên
xuất hiện. Những con khỉ đầu tiên xuất hiện 80 triệu năm sau đó.
100000 Năm Trước:
Loài người tiến hóa với
một bộ óc lớn nhất tính theo tỷ lệ với kích thước của thân thể.
Trên đây là nguồn gốc
con người. Nhưng chúng ta từ đâu đến? Sau đây là tóm tắt những hiểu
biết mới nhất về giống người, theo National Geographic, March 2006:
Các khoa học gia từ
trước vẫn cho rằng các sắc dân xuất xứ từ Phi Châu. Và gần đây các
chuyên gia về Di Truyền Học đã đi tới cùng một kết luận như vậy qua
những khảo cứu về DNA. Theo sự hiểu biết trong giới khoa học ngày nay
thì con người xuất hiện trên khắp thế giới qua 6 giai đoạn di dân:
1. Cái nôi Phi
Châu: Hầu hết các nhà cổ sinh vật – nhân chủng học
(paleoanthropologists) và các nhà di truyền học đồng ý là con người hiện
đại bắt đầu xuất hiện ở Phi Châu cách đây kho ảng 200000 năm. Di vật
hóa thạch của con người sớm nhất được tìm thấy ở Omo Kibish, Ethiopia.
Ở nhiều điểm trên đất Do Thái có nhiều bằng chứng về sự hiện diện của
con người ngoài Phi Châu, nhưng nhóm người này không di dân xa hơn nữa
và tuyệt chủng vào khoảng 90000 năm trước đây.
2. Đi ra khỏi Phi
Châu: Những dữ kiện về di truyền chứng tỏ rằng một nhóm nhỏ con
người hiện đại đã rời khỏi Phi Châu vào khoảng từ 70000 đến 50000 năm
trước đây và thay thế cho những người cổ xưa hơn như Neandertals. Tất
cả những người không phải là Phi Châu đều là hậu duệ của nhóm người di
dân ra khỏi Phi Châu này, có thể theo đường từ đầu ngọn của Hồng Hải và
đi xuống theo một lối mở nhỏ hẹp ở phía Nam.
3. Những người Úc
đầu tiên: Những khám phá ở hai nơi cổ xưa – những dụng cụ do
người làm ra tìm thấy trong vùng Malakunanja và những di vật hóa thạch ở
hồ Mungo – chứng tỏ rằng con người hiện đại đã theo con đường bờ biển
dọc theo Nam Á và tới Úc khoảng 50000 năm trước đây. Những hậu duệ của
nhóm người này, các thổ dân Úc (Australian Aborigines), về di truyền,
vẫn giữ lại sự riêng biệt cho đến ngày nay.
4. Những người Âu
Châu đầu tiên: Những nhà cổ sinh vật – nhân chủng học từ lâu đã
nghĩ rằng người Âu Châu theo đường từ Bắc Phi qua Levant. Nhưng những
dữ kiện di truyền chứng tỏ rằng DNA của những người Tây Âu lai Á
(Western Eurasians) thì giống DNA của những người Ấn Độ. Rất có thể là
con người đã di dân từ Á Châu đến Âu Châu trong khoảng từ 40000 đến
30000 năm về trước.
5. Dân Á Châu:
Vào khoảng 4000 năm trước đây, con người đi đến Trung Á và tới miền cao
phía Bắc Hi Mã Lạp Sơn. Cùng lúc họ đi qua Đông Ná Á và Trung Quốc, rồi
tới Nhật Bản và Siberia. Những bằng chứng di truyền cho thấy con người
ở miền Bắc Á đã di dân đến Mỹ Châu.
6. Tới Tân Thế
Giới: Thời điểm chính xác con người đầu tiên tới Mỹ Châu vẫn
còn trong vòng bàn cãi. Bằng chứng di truyền cho thấy thời điểm đó
trong khoảng từ 20000 tới 150000 năm trước đây, khi mực nước biển thấp
và đất liền nối Siberia với Alaska. Những vùng băng đá ở Bắc Mỹ bắt
buộc những người mới tới Mỹ phải di chuyển xuống phía Nam..
Trên đây là những gì
chúng ta biết ngày nay về nguồn gốc con người và đại khái là chúng ta từ
đâu đến. Nhưng cũng như mọi ngành khoa học khác, sự hiểu biết trên
không đứng một chỗ, và chúng ta hi vọng trong tương lai, xa hay gần
chúng ta không định đoạt được, càng ngày chúng ta càng biết nhiều hơn và
chính xác hơn về loài người của chúng ta.
Tôi xin kết bài này
bằng một đoạn của Robert G. Ingersoll đã viết về thuyết Tiến Hóa của
Charles Darwin cách đây hơn một thế kỷ như sau:
“Thế kỷ này (TK
19) sẽ được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ta là một trong những vĩ nhân
trên trái đất. Ông ta đã giải thích rõ ràng những hiện tượng về sự sống
hơn tất cả những ông thầy dạy của Ki Tô Giáo. Một bên, viết tên của
Charles Darwin, và bên kia viết tên của mọi nhà thần học từ trước tới
nay, và từ tên của Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của
tất cả các nhà thần học gộp chung lại. Thuyết Tiến Hóa, thuyết sống còn
thích ứng nhất với hoàn cảnh xung quanh, thuyết nguồn gốc các chủng loại
của ông ta đã cất bỏ cái vết tích cuối cùng của Ki Tô Giáo ra khỏi
những người có đầu óc. Ông ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là
những người được Thần linh khải cho viết Thánh Kinh không biết gì về thế
giới này, về nguồn gốc con người, về địa chất học, về thiên văn học, về
thiên nhiên; rằng Thánh Kinh được viết do sự ngu si – với sự dọa dẫm để
làm cho sợ hãi. Hãy nghĩ đến những người đã trả lời (phê bình) ông ta.
Càng ngu bao nhiêu thì họ càng hồ hởi làm công việc này. Darwin bị chế
riễu, khinh khi và coi thường bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà
khi ông ta chết, Anh Quốc đã hãnh diện chôn ông ta cùng với những nhân
vật cao quý nhất và vĩ đại nhất của nước Anh. [Darwin được chôn
ngay gần Isaac Newton trong điện Westminster (Westminster Abbey). Trước
sự kiện này, Mục sư Laing đã phê bình “đây là một bằng chứng chứng
minh nước Anh không còn là một quốc gia theo Ki Tô Giáo nữa” (a
proof that England is no longer a Christian country). TCN] Charles
Darwin đã chinh phục thế giới trí thức, và những lý thuyết của ông ta
ngày nay đã được chấp nhận như là những sự kiện.
Giáo hội Ki Tô
dạy rằng con người đã được sáng tạo ra thật là hoàn hảo [vì theo
hình ảnh của Thiên Chúa], và trong 6 ngàn năm qua đã không ngừng
thoái hóa. Darwin đã chứng minh sự sai lầm của cái tín lý này. Ông ta
chứng minh rằng con người, trong nhiều ngàn thời đại, đã không ngừng
tiến bộ; rằng cái Vườn Eden là huyền thoại của kẻ ngu; rằng giáo lý
về tội tổ tông không có nền tảng dựa trên sự kiện; rằng chuộc tội là một
sự vô nghĩa; rằng con rắn không có quyến rũ con người ham muốn, và
con người không có “sa ngã”.
Charles Darwin
đã phá sập Ki Tô Giáo. Chẳng có gì khác còn lại ngoài một đức tin vào
cái mà chúng ta biết không thể xảy ra và đã không hề xảy ra. Ki Tô
Giáo và khoa học là kẻ thù của nhau. Một bên là mê tín, bên kia là một
sự kiện. Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên trên sự chân
thật. Một bên là kết quả của sự sợ hãi và đức tin, bên kia là sự tìm
tòi để hiểu biết và lý trí.
Chúng ta hãy
lương thiện. Tất cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại có gia tăng sự
phong phú của tâm linh như là Bruno không? Tất cả những linh mục
ở Pháp gộp lại có góp phần lớn lao nào vào nền văn minh của thế giới như
là Diderot và Voltaire không? Tất cả các mục sư ở Scotland gộp
lại có gia thêm vào kiến thức của nhân loại như là David Hume không?
Những người trong giới chăn chiên, mục sư, linh mục, giám mục, hống y và
giáo hoàng, từ ngày Giê-su thăng thiên đến cuộc bầu phiếu cuối cùng, có
góp phần vào sự tự do của con người như là Thomas Paine không? – góp
phần vào khoa học như là Charles Darwin không?
Thế giới đã trở
thành cái gì nếu không có những người không muốn tin vào Ki Tô Giáo?
10
Chúng ta nên để ý,
Ingersoll viết bài trên vào cuối thế kỷ 19, khi mà Thuyết Tiến Hóa bị Ki
Tô Giáo chống đối dữ dội, dựa trên một số chi tiết trong thuyết Tiến Hóa
chưa thể kiểm chứng được. Với thời gian qua, càng ngày những kết quả
nghiên cứu của các khoa học gia trong nhiều bộ môn khoa học mà chính
Darwin cũng không biết đến càng chứng tỏ là thuyết Tiến Hóa có một căn
bản vững chắc và có thể giải thích được rất nhiều điều trong nhiều bộ
môn khoa học, nhất là trong Sinh Học, đặc biệt là về Nguồn Gốc Con
Người.
Như trên đã nói,
thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin và những phát triển về sau trong
nhiều bộ môn khoa học đã mở mang đầu óc con người rất nhiều và có ảnh
hưởng vô cùng lớn lao trên xã hội loài người. Đi từ thuyết Tiến Hóa con
người đã phát triển ra những bộ môn khoa học có ích cho con người, nhất
là về sinh học, khám phá ra Genome, DNA, “gen” v…v… và tiến một bước dài
trong y học để đối trị với những bệnh tật như ung thư, AIDS v..v.. mà
ngày nay vẫn còn một số người tin rằng do Thiên Chúa của họ tạo ra để
trừng phạt những đứa con bị Thiên Chúa ghét.
Trong bài viết trên,
tôi đã cố gắng viết thật đơn giản về thuyết Tiến Hóa, không đi vào những
chi tiết chuyên môn thí dụ như sự sao y chính bản (replication) của các
DNA, sự chuyển dịch (translation), sự tạo ra các RNA từ DNA v..v.. và vô
số các hiện tượng khác trong Sinh Học cũng như chi tiết về “cây Tiến
Hóa”. Đây là những đề tài vô cùng phong phú và thích thú, cho nên tôi
muốn đề nghị với quý độc giả mấy cuốn sách căn bản, qua đó quý vị có thể
hiểu rõ chi tiết đầy đủ hơn về “Nguồn Gốc Vũ Trụ” và “Nguồn
Gốc Con Người”:
Angela, Piero &
Alberto, The Extraordinary Story of Life on Earth, Prometheus
Books, New York , 1996.
Birx, James,
Interpreting Evolution: Darwin & Teilhard De Chardin, Prometheus
Books, New York, 1991
Davis, Bernard
D., The Genetic Revolution, The John Hopkins University Press,
Baltimore, 1991.
Gould, Stephen
Jay, General Editor, The Book of Life, W.W. Norton & Company, New
York, 2001
Gribbin, John,
In The Beginning: After COBE & Before The Big Bang, Little Brown
& Company, New York, 1993
Gribbin, John &
Cherfas, Jeremy, The First Chimpanzee: In Search of Human Origins,
Barnes & Noble Books, New York, 2001.
Leaky, Richard &
Lewin, Roger, Origins Reconsidered: In Search of What Makes Us Human,
Doubleday, New York, 1992.
Liebes, Sidney &
Sahtouris, Elisabeth & Swimme, Brian, A Walk Through Time: From
Stardust to Us, The Evolution of Life on Earth, John Wiley & Sons,
Inc., New York, 1998.
Lockley, Martin,
The Eternal Trail: A Tracker Looks at Evolution, Perseus Books,
Reading, Massachusetts, 1999.
Mayr, Ernst,
What Evolution Is?, Perseus Books, New York, 2001.
Ridley, Matt,
Genome: The Autobiography of a Species in 23 Chapters,
HarperCollinsPublishers, New York, 1999.
Shapiro, Robert,
Origins: A Skeptic Guide To The Creation of Life on Earth, Bantam
Books, New York, 1987.
Singh, Simon,
Big Bang: The Origin of the Universe, Fourth Estate, New York, 2004.
Wade, Nicholas,
Before The Dawn: Recovering The Lost History of Our Ancestors,
The Penguin Press, New York, 2006.
Zimmer, Carl, Evolution: The Triumph of an Idea, HarperCollinsPublishers, New
York, 2001.
*
* *
1. George Bernard Shaw in a toast to Einstein at
a black-tie banquet in 1930: Belief in (Christian) God explains
everything about the material universe, therefore it explains
nothing...Religion is always right, Religion solves every problem and
thereby abolishes problems from the universe.... Science is the very
opposite. Science is always wrong. It never solves a problem without
raising ten more problems
2.
The main conclusion arrived at in this
work, namely, that man is descended from some lowly organized forms,
will, I regret to think, be highly distasteful to many. But there can
hardly be a doubt that we are descended from barbarians.
3. The human body may not have been the
immediate creation of God, but is the product of a gradual process of
evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of
evolution as more than just a hypothesis.
4.
Is evolution a theory, a system or a
hypothesis? It is much more: it is a general condition to which all
theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must
satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a
light illuminating all facts, a curve that all lines must follow...
5. The theory of evolution is among the most
elegant and fruitful structures of human thought... All scientific
disciplines continue to support and verify the concept of evolution.
The theory of evolution, like the theory of relativity, is no longer a
"theory" in the popular sense, but a scientific principle based on
considerable, indisputable evidence.
6. The theory of evolution made Adam and Eve
legendary at best. Evolution was not easy for the religious
establishment to accept, and still voices are raised today in
remote areas of the world to resit it. Those voices will never
succeed. Human life clearly evolved over a
four-and-a-half-to-five-billion-year process. There were no first
parents, and so the primeval act of disobedience on the part of first
parents could not possibly have affected the whole human race. The myth
was thus dealt a blow, and the monolithic story of salvation built by
Christian apologists over the age began to totter.
7. Evolution is not merely an idea, a
theory, or a concept, but is the name of a process in nature, the
occurrence of which can be documented by mountains of evidence that
nobody has been able to refute...It is now actually misleading to refer
to evolution as a theory, considering the massive evidence that has been
discovered over the last 140 years documenting its existence. Evolution
is no longer a theory, it is simply a fact.
8. Evolution is an established fact
supported by both science and reason; our own species is linked to life,
earth history, this galaxy, and the universe itself.
Is there a modern theology that embraces
both a cosmic perspective and the evolutionary framework within an
openended and myth-free worldview? Eventually, the blind dogma of
religious faith with its outmoded stories and myopic values wears very
thin, indeed; it is simply wishful thinking to believe in human
immortality and a spiritual cosmos.
9. Science, as we professionals always point
out, cannot establish absolute truth; thus, our conclusions must always
remain tentative. But this healthy skepticism need not be extended to
the point of nihilism, and we may surely state that some facts has been
ascertained with sufficient confidence that we may designate them as
“true” in any legitimate, vernacular meaning of the world.
Perhaps I cannot be absolutely
certain that the earth is round rather than flat, but the roughly
spherical shape of our planet has been sufficiently well verified that I
need not grant the “flat earth society” a platform of equal time, or
even any time at all, in my science class.
Evolution, the basic organizing concept
of all the biological sciences, has been validated to an equally high
degree, and may therefore be designated as true or factual.
10. This century will be called
Darwin’s century. He was one of the greatest men who ever touched this
globe. He has explained more of the phenomena of life than all of the
Christian religious teachers. Write the name of Charles Darwin on the
one hand and the name of every theologian who ever lived on the other,
and from that name has come more light to the world than from all
those. His theory of evolution, his theory of the survival of the
fittest, his theory of the origin of species, has removed in every
thinking mind the last vestige of Christianity. He has not only stated,
but he has demonstrated, that the inspired writer knew nothing of this
world, nothing of the origin of man, nothing of geology, nothing of
astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book written by
ignorance – at the instigation of fear. Think of the men who replied to
him. The more ignorant he was the more cheerfully he undertook the
task. He was held up to the ridicule, the scorn and contempt of the
Christian world, and yet when he died, England was proud to put his dust
with that of her noblest and her grandest. Charles Darwin conquered the
intellectual world, and his theories are now accepted facts.
The Christian church teaches that
man was created perfect, and that for six thousand years he has
degenerated. Darwin demonstrated the falsify of this dogma. He shows
that man has for thousands of ages steadily advanced; that the Garden of
Eden is an ignorant myth; that the doctrine of original sin has no
foundation in fact; that the atonement is an absurdity; that the serpent
did not tempt, and that man did not “fall”.
Charls Darwin destroyed the foundation of
Christianity. There is nothing left but faith in what we know could not
and did not happen. The Christian religion and science are enemies.
One is a superstition; the other is a fact. One rests upon the false,
the other upon the true. One is the result of fear and faith, the other
of investigation and reason.
Let us be honest. Did all the
priests of Rome increase the mental wealth of man as much as Bruno? Did
all the priests of France do as great a work for the civilization as
Diderot and Voltaire? Did all the ministers of Scotland add as much to
the sum of human knowledge as David Hume? Have all the clergymen,
friars, ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from the day
of Pentecost to the last election, done as much for human liberty as
Thomas Paine? – as much for science as Charles Darwin?
What would the world be if infidels
had never been?(Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org)
No comments :
Post a Comment