Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các
bậc Thánh Thinh Văn thừa, khác nhau tùy thuộc vào trình độ căn cơ của
hành giả đã đạt được sau khi tu tập, đó là Tu-đà-hoàn (srota-āpanna) còn
gọi là nghịch lưu quả, Tư-đà-hàm (sakradāgamin) còn gọi là Nhất lai
quả, A-na-hàm (anāgāmin) còn gọi là Bất hoàn quà và, A-la-hán (arhat)
tức là A-la-hán quả. Tu-đà-hoàn là quả vị của những chúng sanh phàm phu
bắt đầu nhập vào hay dự vào dòng Thánh đạo nên bắt buộc hành giả phải đi
ngược dòng sanh tử, do đó đức Đạo sư gọi bước đi của họ là nghịch lưu,
có nghĩa là đi ngược dòng sinh tử để đi đến Thánh đạo, tức là hành giả
muốn đạt được quả vị này phải đoạn trừ sạch Kiến hoặc ba cõi (một trong
ba hoặc của vô minh là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc).
Tư-đà-hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi trời Dục lục đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của dục giới và, chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian nữa, cho nên cũng gọi là Nhất lai. Quả vị này vẫn còn trong dự lưu quả. A-na-hàm là quả vị của những hành giả đã đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giời và sẽ không còn sanh trở lại dục giới nữa, mà sẽ sinh về sắc giới hay vô sắc giới tùy thuộc vào kết quả sâu cạn của nó mà thôi. A-la-hán là quả vị cuối cùng của bốn quả, hành giả đã đoạn trừ hết kiến và tư hai hoặc không còṇ, là cực quả của hàng Thinh Văn thừa, vĩnh viễn đi vào Niết-bàn không còn tái sinh vào ba cõi nữa, cho nên gọi là bất sinh. Đây là Bốn quả sa-môn của Thinh Văn thừa, có nơi còn gọi là bốn quả Sa-môn chúng tôi trình bày sơ qua ý nghĩa của chúng mà thôi, dưới đây chúng tôi sẽ trình bày một cách chi tiết và những liên hệ duyên khởi với bốn hướng lệ thuộc trong nội hàm cần phải có trước khi hành giả đi đến những quả vị này.
Tư-đà-hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi trời Dục lục đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của dục giới và, chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian nữa, cho nên cũng gọi là Nhất lai. Quả vị này vẫn còn trong dự lưu quả. A-na-hàm là quả vị của những hành giả đã đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giời và sẽ không còn sanh trở lại dục giới nữa, mà sẽ sinh về sắc giới hay vô sắc giới tùy thuộc vào kết quả sâu cạn của nó mà thôi. A-la-hán là quả vị cuối cùng của bốn quả, hành giả đã đoạn trừ hết kiến và tư hai hoặc không còṇ, là cực quả của hàng Thinh Văn thừa, vĩnh viễn đi vào Niết-bàn không còn tái sinh vào ba cõi nữa, cho nên gọi là bất sinh. Đây là Bốn quả sa-môn của Thinh Văn thừa, có nơi còn gọi là bốn quả Sa-môn chúng tôi trình bày sơ qua ý nghĩa của chúng mà thôi, dưới đây chúng tôi sẽ trình bày một cách chi tiết và những liên hệ duyên khởi với bốn hướng lệ thuộc trong nội hàm cần phải có trước khi hành giả đi đến những quả vị này.
1 . Tu-đà-hoàn (srota-āpanna)
còn phiên là Tu-lũ-đa A-bán-na,, là quả Thánh tối sơ trong bốn quả Thinh
Văn thừa, là sơ quả, quả vị đạt được của Thánh giả khi hành giả đã đoạn
trừ sạch mọi kiến hoặc, nhờ hành giả thấy được lý của Tứ đế, đạt được
mắt trí tuệ vô lậu thanh tịnh. Nhờ vào đây mà hành giả có thể đến thẳng
quả Dự lưu, không đọa vào ba đường ác nữa, nên gọi là pháp vô thối đọa;
nhưng vì hành giả của quả vị này còn chưa chứng nhập vào quả vị nên chưa
gọi là quả mà gọi là hướng, có nghĩ là hành giả cò một tâm vị cuối cùng
trong mười sáu tâm vị để chứng hập vào quả vị Tu-đà-hoàn, nên hành giả
cần phải hoàn thành nốt tâm vị mười sáu mới hoàn thành được quả, là phải
đoạn trừ hết kiến hoặc của ba cõi, dùng tất cả mười sáu tâm vị mà nhập
vào địa vị vô lậu Thánh đạo. Thánh giả trong mưới sáu vị kiến đạo vì căn
cơ có chậm có nhanh nên phân ra làm hai: (1) Tùy tín hành, là chỉ cho
những vị căn độn, chậm chạp, tự mình không thể lịch duyệt văn bản giáo
pháp, chỉ tin vào những lời dạy của người khác mà được ngộ đạo. (2) Tùy
pháp hành, chỉ cho những vị có lợi căn bén nhạy, tự mình có thể lịch
duyệt văn bản giáo pháp của Phật theo pháp mà thực hành. Vì ở đây hành
giả tùy theo căn cơ mà theo pháp hành, đoạn được kiến hoặc của ba cõi,
có nghĩa là người đang đi nghịch lại dòng sinh tữ luân hồi, nên dự vào
dòng Thánh và chứng nhập vào sơ quả của bậc Thánh, cho nên gọi là Dự
lưu. Tu-đà-hoàn phân ra làm hai vị nhân quả, đó là tự nhập vào từ “Kiến
đạo” sơ tâm cho đến thập ngũ tâm, đó là giai đoạn tác nhân hướng đến quả
Tu-đà hoàn thì, giai đoạn này gọi là Tu-đà-hoàn hướng. Sau khi hành giả
đạt được Tu-đà-hoàn hướng rồi thì tiếp theo là phải hoàn thành vị cuối
cùng của “Kiến đạo” là thập lục tâm vị (Khi hành giả tiến vào kiến đạo
thì phải dùng trí vô lậu mà hiện quán về Tứ đế thì sẽ được mười sáu loại
trí tuệ gọi là thập lục tâm, tức là đối với Tư đế, mỗi đế tự sanh ra
bốn cách lý giải cộng lại thành mười sáu), nếu vị này hoàn thành được
thì đạt được quả vị Tu-đà-hoàn rốt ráo, đó chính là cái quả của
Tu-đà-hoàn, là cái sơ quả chính trong bốn Thánh vi của Thinh Văn thừa.
Theo Thông Lộ Ký của Ngũ Giáo Chương 50 thì, hành giả của quả dự lưu
được phân ra làm ba loại: (1) Hiện ban Dự lưu, là khi “Tư hoặc” ba cõi
của hành giả đều đoạn tận thì sẽ đạt được quả vô học mà chứng nhập vào
Bát Niết-bàn, dành cho các hành giả thuộc vào hàng có lợi căn. (2) Hiện
tiến Dự lưu, nhờ có tiến tu mà hành giả đoạn trừ được sáu phẩm trước cho
đến chín phẩm “Tư hoặc” của dục giới, mà chứng nhập vào “quả nhất lai”
cùng chứng nhập vào “quả Bất hoàn” dành cho hành giả thuộc vào hàng có
căn cơ hạng trung. (3) Thọ sanh Dự lưu, chỉ cho những hành giả sinh qua
lại trong cõi trời hay cõi người hoặc một, hai lần cho đến bảy lần thuộc
vào hàng có căn độn chậm lụt. Đó chính là hai thuộc tính của nhân quả
Tu-đà-hoàn.
2 . Tư-đả-hàm (sakadāgamin), còn
phiên là Sa-yết Đà-già-di, là quả Thánh thứ hai trong bốn quả Sa-môn
Thinh Văn thừa, có nghĩa là Thánh giả khi tu tập đạt đến quả vị này thì
chỉ còn có một lần sanh lại cho nên gọi là Nhất lai. Hơn nữa trước khi
Thánh giả muốn đạt được Tư-đà-hàm quả này thì Thánh giả phải hoàn thiện
Tư-đà-hàm hướng sau đó mới mong đạt được quả vị này, tức là thánh giả
của Dự lưu quả (Sơ quả) ngoài việc hoàn thành việc đoạn trừ tư hoặc dục
giới từ nhất phẩm cho đến ngũ phẩm của Tư-đà-hàm hướng, có nghĩa là lúc
này hành giả mới chỉ đạt được Tư-đà-hàm hướng hay còn gọi là Nhất lai
hướng ma thôi; chỉ khi nào Thánh giả hòan thành việc đoạn trừ Tư hoặc
dục giới phẩm thứ sáu thì mới gọi là Tư-đà-hàm quả và, lúc này Thánh giả
chỉ còn một lần sinh từ trên trời đến nhơn gian hay ngược lại từ nhân
gian lên đến trời mới vào Niết-bàn. Từ đây trở lui về sau thánh giả
không còn tái sinh nữa, lúc này mới gọi là Tư-đà-hàm quả hay là Nhất lai
quả. Qua đây, cho hành giả chúng ta thấy rằng trong chín phẩm Tư hoặc
dục giới mà nếu Thánh giả đoạn trừ được sáu phẩm trước thì tùy theo
thuộc tính của kết quả đó mà Thánh giả nhận được theo tên gọi của nó,
còn ba phẩm cuối chưa trừ được Tư hoặc, nên còn phải qua một lần tái
sinh từ cõi trời vào nhơn gian mà vào Bát Niết-bàn, vì vậy cho nên gọi
là Nhất lai. Theo Tăng Nhất A-hàm 20 (Đ.2, tr. 653c) đức Đạo sư dạy:
“Sao gọi là hoa Bân-đà-lợi Sa-môn? Hoặc có người, hết ba kết sử, nhẹ dâm
nộ si, thành tựu quả Tư-đà-hàm, lại đến thế gian này, tận cùng hết khổ;
hoặc người nhanh nhẹn đến thế gian này, tận cùng hết khổ; hoặc người
dõng mãnh, đối thế gian này tận cùng hết khổ, giống như hoa Bân-đà-lợi
sớm nở tối tàn, đó gọi là hoa Bân-đà-lợi Sa-môn.” Y cứ vào đây, chúng ta
có thể biết rằng cùng là Thánh giả của Nhất lai quả cũng có thể tế nhị
phân ra làm hai: (1) Công dõng mãnh nhanh chóng tu hành của họ gọi là
hoa Bân-đà-lợi Sa-môn. (2) Công chậm chạp lề mề tu hành của họ gọi là
Nhất lai. Ở đây chúng tùy thuộc vào sự nổ lực tinh tấn của Thánh giả
nhanh hay chậm và, cũng tùy thuộc vào đó mà có thời gian hòan thành
nhanh hay chậm mà thôi.
3 . A-na-hàm (anāgāmin), còn
phiên là A-na-già-di gọi tắt là Na-hàm, là quả thứ ba của Thánh giả
trong Bốn quả Sa-môn Thinh Văn thừa, có nghĩa là ở đây, hành giả nào
đọan trừ hòan tòan rốt ráo được ba phẩm còn lại cuối cùng trong chín
phẩm thời gọi là A-na-hàm quả có nghĩa là Bất hòan quả (anāgāmi-phala);
nếu trong ba phẩm còn lại mà hành giả chỉ đọan trừ được một hoặc hai
phẩm mà còn lại hai hoặc một phẩm chưa đoạn trừ thì chưa gọi là A-na-hàm
quả được mà chỉ gọi là A-na-hàm hướng có nghĩa là Bất hòan hướng
(anāgāmi-pratipannaka). Như vậy, Quả thứ ba của Thinh Văn thừa là
A-na-hàm quả này cũng chia ra làm hai như hai quả trên là A-na-hàm hướng
và A-na-hàm quả. Nếu Thánh giả chỉ mới hòan thành được một hoặc hai
trong ba phẩm còn lại thì gọi là hướng, còn nếu hành giả nào hòan thành
cả ba phẩm còn lại thì gọi là A-na-hàm quả. Trong giai đọan hành giả
hòan thành A-na-hàm hướng, tức là chỉ đọan trừ được một tư hoặc, thứ
bảy, hay hai tư hoặc, thứ bảy và tám, tức là còn lại một hay hai phẩm
thì hành giả đang ở trong giai vị, buộc phải thọ sanh một lần trong cõi
trời thuộc dục giới (trời lục dục) gọi là Nhất gian (ekavīcika); cũng
gọi là Nhất sanh, Nhất phẩm hoặc, cũng gọi là Nhất chủng tử. Trong giai
đọan hành giả đã đọan trừ hòan tòan ba phẩm tư hoặc cuối cùng của cửu
phầm tư hoặc thì, đó chính là lúc Thánh giả không còn tái sinh trở lại
cõi dục nữa. Vì hành giả không còn tái sinh vào cõi dục nữa cho nên gọi
là Bất hòan. Trong quả Bất hòan có thể phân ra làm năm loại, gọi là ngũ
chủng bất hòan, có nơi còn gọi là ngũ chủng A-na-hàm, ngũ bất hòan quả,
hay ngũ chủng ban đó là: (1) Trung ban, chỉ cho Thánh giả bất hòan quả
khi chết ở cõi dục được sinh về cõi sắc, ở vị “trung hữu” của sắc giới
mà nhập vào Bát Niết-bàn. (2) Sanh ban, Thánh giả đã sinh về sắc giới
không lâu có khả năng phát khởi Thánh đạo, đọan trừ được hoặc nghiệp của
vô sắc giới mà Bát Niết-bàn. (3) Hữu hành ban, Thánh giả sanh vào cõi
sắc, tinh tấn thực hành thêm, qua thời gian lâu dài hơn nữa mà vào Bát
Niết-bàn. (4) Vô hành ban, hành giả sanh về cõi sắc, nhưng chưa tinh tấn
thực hành thêm, phải trải qua lâu ngày chầy tháng mới đoạn trừ được
hoặc nghiệp của cõi vô sắc mà vào Bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu ban,
trước hành giả sinh về sơ thiền cõi sắc, dần dần sanh lên trong các trời
khác ở cõi sắc, cuối cùng đến trời sắc cứu cánh hoặc trời Hữu đảnh mà
nhập Bát Niết-bàn. Lại nữa, Thánh giả nào nhập vào Diệt tận định, chứng
đắc giống như cái vui Niết-bàn tịch tịnh của Bất hòan quả, còn gọi là
thân chứng hoặc gọi thân chứng bất hòan mà đọan trừ chín phẩm tư hoặc
cõi dục, nhưng Thánh giả nào đạt được Bất hòan quả ở đây, thì sẽ lại
sinh khởi phiền não dục giới trở lại mà tự thối đọa Bất hòan quả, vì vậy
cho nên gọi là Ly dục thối (thối ly dục). Đó là những gì sai biệt có
được từ A-na-hàm quả và Diệt tân định, tuy cái vui giống nhau nhưng một
bên là Bất hòan quả còn một bên trở thành ly dục thối hay Bất hòan quả
thối đọa.
4 . A-la-hán (arhat), còn phiên
là A-lô-hán, A-la-a, A-lợi-a, hoặc A-lê-a, hay Át-la-hà-đế là quả thứ tư
của bốn quả Sa-môn Thinh văn thửa, là một trong mười danh hiệu của đức
Như lai, chỉ cho những vị Thánh đã đoạn tận tất cả những phiền não mà
được Tân trí, đáng được người đời cúng dường; nhưng sau này nghĩa thứ
nhất được dùng nhiều để chỉ cho những vị Thinh văn đệ tử của Như lai đã
chứng được bốn quả vị mà nói hơn là nghĩa thứ hai. A-la-hán có ba nghĩa:
Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh. Ở đây tùy theo thuộc tính của từng chức
năng mà chúng thể hiện những công năng và những dụng quả của chúng mà
chúng có những nghĩa được mang tên gọi. Trước hết quả vị này các hành
giả Thinh văn thừa muốn đạt được cực quả này thì cần phải đoạn trừ sạch
hết tất cả hai thứ vô minh tư hoặc và kiến hoặc lúc đó mới được gọi là
sát tặc; từ kết quả này mà hành giả mới được nhận sự cúng dường của Trời
- Người nên gọi là Ứng cúng và, cũng từ đây quả báo hết một đời cũng
chấm dứt luôn, vĩnh viễn vào Niết-bàn không bao giờ tái sinh trở lại ba
cõi nữa nên gọi là Bất sinh. Theo Câu Xá luận 24 thì, từ quả bất hoàn
tiến tu để đoạn trừ hẳn các hoặc nghiệp. Bắt đầu từ sơ định phẩm một cho
đến đoạn trừ hữu đảnh phẩm tám sau cùng thì lúc này được gọi là
A-la-hán hướng. Ở đây nói về chức năng đoạn trừ hoặc của hữu đảnh trong
A-la-hán hướng, còn đệ cửu vô gián đạo được gọi là kim cương định, tất
cả mọi tùy miên điều bị phá trừ; trong vô gián đạo những khả năng đoạn
hoặc thì định này tương ưng tối thắng … và trong đoạn hoặc định này cũng
là đạo vô gián sau cùng và cũng là nơi sinh ra tận trí đạo giải thoát
tối hậu. Do vì định này vừa đoạn trừ lậu tận vừa sinh ra đạo giải thoát
tối hậu nên được gọi là Tận trí. Khi Tân trí được sinh ra thì cũng là
lúc quả vô học A-la-hán thành tựu. Ở đây hành giả nhờ vô học mà thành
quả nên biệt quả này không từ sự học của hành giả hữu học mà có nên được
gọi là Vô học. Đây là quả vị cuối cùng của bốn quả Sa-môn theo quan
điểm của các nhà Thinh văn thửa; tuy nhiên theo các nhà Đại thừa thì quả
vị A-la-hán không những chỉ dành riêng cho các hàng Thinh văn không
thôi mà dùng chung cho cả ba thừa như Thành Duy thức luận 3 (Đ. 31, tr.
13a đã dạy: “A-la-hán, chỉ chung cho quả vị Vô học của ba thừa.”
Về ý nghĩa của A-la-hán như trên
chúng tôi đã đề cập sơ qua, ở đây theo luận Đại Tỳ-bà-sa 94 (Đ. 27, tr.
487b) thì, “ Nhằm đáp ứng sự thọ nhận cúng dường tối thắng của thế
gian, cho nên gọi là A-la-hán, vì ở thế gian không có những mạng duyên
thanh tịnh nào, ngoài các vị A-la-hán nơi đáng được sự nhận lãnh. Hơn
nữa, A-la là chỉ cho tất cả phiền não, Hán là có khả năng làm tổn hại,
dùng đao bén trí tuệ sát hại giặc phiền não khiến chúng không còn nữa,
cho nên gọi là A-la-hán. Và A-la-hán còn có nghĩa là: A là không, La-hán
là sanh, vì không sanh cho nên gọi là A-la-hán; nghĩa là là các vị
A-la-hán không còng sinh trở lại trong sinh tử luân hồi ba cõi sáu đường
nên gọi là bất phục sinh. Lại nữa, A-la còn có nghĩa là xa lìa, Hán có
nghĩa là pháp ác bất thiện, vì hành giả xa lìa các pháp ác bất thiện nên
gọi là A-la-hán.” và theo Đại Trí Độ luận 2 thì, A-la-hán có ba nghĩa:
Sát tặc, Bất sanh và, Ứng thọ cúng dường. Nếu y cứ vào ngữ căn √arh của
từ arhan (= arhat) có nghĩa là ‘đáng nhận’ (kham thọ) hay ‘được làm mọi
việc’ (đắc tác mỗ sự) theo nghĩa này thì arhat chủ cách có nghĩa là tác
Ứng cúng. Nhưng theo Câu Xá luận 24 thì chỉ nên làm việc người (Ứng tác
tha sự), tức là nơi ứng cúng cho mọi người nên gọi là A-la-hán. Và theo
Đại Thừa Nghĩa Chương 20 thì, A-la-hán có bốn nghĩa: (1) Phật Ứng đoạn
tấc cả các pháp ác nên gọi là Ứng. (2) Như Lai Ứng chứng Niết-bàn tịch
diệt nên gọi là Ứng. (3) Như lai Ứng hóa tất cả chúng sanh nên gọi là
Ứng. (4) Như lai đoạn tận lậu hoặc đạt phước điền thanh tịnh, Ứng thọ
vật cúng dường nên gọi là Ứng cúng. Theo Thành Duy Thức luận thuật ký 3
thì cũng định nghĩa A-la-hán như sau: “A-la-hán nghĩa chính là Ứng. Ứng
có nghĩa là khế hợp thừa đương. thích ứng đoạn phiền não, thích ứng nhận
cúng dường, ứng hợp với việc không tái sinh trở lại đời sau. Chỉ nói
một nghĩa thì thông ba nghĩa, nên nói Như lai ứng, không nói ứng cúng
(một nghĩa) nếu thêm chữ cúng vào thì chỉ có một nghĩa, liền mất hai
nghĩa kia.” Qua những định nghĩa về A-la-hán như trên, tuy cũng có một
vài điểm không đồng nhất, nhưng trên ý nghĩa đưa đến rốt ráo thì kinh
luận nào cũng nói đến việc đoạn trừ xa lìa ác pháp bất thiện để đưa đến
Niết-bàn thì cùng chung một quan điểm. Có thể đây là những sai biệt về
cách thức định nghĩa hay giải thích theo từng thuộc tính của các bộ phái
nên có những hình thức không đồng bộ như vậy.
Về việc phân loại A-la-hán cũng
có rất nhiều loại tùy thuộc vào ý nghĩa và trình độ qua quá trình tu tập
mà các kinh luận sắp xếp theo trình độ kiến giải qua sở đắc của từng
loại căn cơ có được của hành giả. Theo Tạp A-tỳ-đàm tâm luận 5, Câu Xá
luận 5 & 25 của Hữu bộ đem A-la-hán phân ra làm sáu loại: (1) Thối
pháp A-la-hán, tức là chỉ cho những hành giả khi gặp những trở ngại trên
đườ tu liền thối mất những sở đắc mà họ (A-la-hán) đã đạt được. (2) Tư
pháp A-la-hán, do lòng sợ hãi thối thất quả vị, mà thường nghĩ đến việc
tự sát. (3) Hộ pháp A-la-hán, nhờ quả vị chỗ đạt được thường trợ giúp lo
sợ (hậu quả) mà không đưa đến sự thối đọa. (4) Trụ pháp A-la-hán, hành
giả không cần đề phòng lòng thối thất, nhưng cũng không làm tăng thên
lên, mà chỉ an trụ nơi quả vị đã đạt được. (5) Kham đạt pháp A-la-hán,
hành giả siêng năng tu luyện, cần cầu thăng tiến. (6) Bất động pháp
A-la-hán, hành giả đã đạt đến Đảnh vị, nên không thối đọa trở lại. Sáu
loại A-la-hán này, đều y cứ vào căn cơ lợi độn của các vị A-la-hán mà
luận phân biệt. Năm loại trước gọi là “Thời giải thoát” (giải thoát tùy
thuộc vào thời gian) thuộc vào độn căn. còn loại thứ sáu gọi là “bất
thời giải thoát” (giải thoát không tùy thuộc vào thời gian), thuộc vào
loại lợi căn. Trong khi Trung A-hàm 30, kinh Phước điền, Cam lồ vị luận,
thượng, Thành Thật luận 1, phẩm Phân biệt Hiền thánh thì, cũng chia ra
làm sáu loại A-la-hán như trên, nhưng lại thêm tuệ giải thoát, câu giải
thoát (hai chướng định-tuệ đều đoạn trừ), vô ngại giải thoát (đoạn được
hai chướng trí-tuệ, thông đạt tất cả văn nghĩa mà được bốn vô biện, cộng
lại thành chín loại và được gọi là cửu vô học. Theo Tam pháp độ luận,
q. trung thì phân A-la-hán làm ba loại: Lợi căn, độn căn và, trung căn;
trong lợi căn lại phân làm ba loại: Lập trụ pháp, Thăng tiến pháp và,
Bất động pháp; độn căn phân ra ba loại: Thối pháp, niệm pháp và, hộ
pháp; trung căn phân ra ba loại: Tuệ giải thoát, câu giải thoát và, bất
câu giải thoát. Theo những cách phân loại trên cho chúng ta biết rằng sự
phân loại ở đây trước hết chúng tùy thuộc vào trình độ căn cơ sở đắc
sau nữa là thời gian huân tập thực hành cạn sâu ngắn dài của hành giả mà
có được trong tu tập.
Tóm lại, Tứ quả Sa-môn là bốn
quả vị của các hàng Thinh văn thừa từ bước chân nghịch lưu ban đầu cho
đến bước cuối cùng là vào Niết-bàn tịch diệt vĩnh viễn. Khi một hành giả
bước chân vào dòng nghịch lưu của dòng sinh tử luân hồi thì tự mỗi hành
giả phải tùy thuộc vào hướng đi, khi hướng đi đến đã đạt thì, sau đó
quả vị mới hiện hữu. Khi nào quả vị của mỗi hành giả thành tựu cho mỗi
hướng đến thì sau đó hành giả mới bước được bước kế tiếp, lệ thuộc vào
thời gian và sự thành tựu của pháp ấy. Tu-đà-hoàn là quả vị của những
hành giả phàm phu bắt đầu nhập vào dòng Thánh đạo và, vì vậy nên bắt
buộc hành giả phải đi ngược dòng sanh tử, do đó đức Đạo sư gọi bước đi
của chúng ta là bước nghịch lưu, có nghĩa là mọi hành giả chúng ta phải
đi ngược dòng sinh tử để đi đến Thánh đạo Niết-bàn tịch tĩnh, nếu hành
giả muốn đạt được quả vị này phải đoạn trừ sạch Kiến hoặc ba cõi, để
bước sang bước đi kến tiếp là Tư-đà-hàm hướng và sau đó hoàn thành
Tư-đà-hàm quả. Tư-đà-hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi
trời Dục lục đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của
dục giới và, chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian, cho nên quả vị này
cũng gọi là Nhất lai. Quả vị này vẫn còn trong dự lưu quả, nên hành giả
muốn tiến lên nữa thì phải đạt hướng A-na-hàm, sau đó mới có thể hoàn
thành được quả vị của nó được. A-na-hàm là quả vị của những hành giả đã
đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giời và sẽ không còn sanh trở
lại dục giới nữa, mà sẽ sinh về sắc giới hay vô sắc giới tùy thuộc vào
kết quả sâu cạn của nó mà thôi, sau đó hành giả nhờ tu tập siêng năng
tinh tấn mà đạt ala-hán hướng cuối cùng, đề sau đó hoàn thành quả vị
cuối cùng trong bốn quả Sa-môn. A-la-hán là quả vị cuối cùng của bốn
quả, hành giả đã đoạn trừ hết kiến và tư hai hoặc không còṇ, đó là cực
quả của hàng Thinh Văn thừa, vĩnh viễn đi vào Niết-bàn không còn tái
sinh vào ba cõi nữa, cho nên gọi là bất sinh.
No comments :
Post a Comment