Tạ Chí Hồng – Nguyên Đạo/Tạ Lê Cẩm Tú – Karma Drola
Chuyện nam nữ có lẽ là vấn đề (tạm gọi) - là
muôn thuở. Nó bắt đầu từ thời kỳ hồng hoang mà đến nay vẫn mang
tính thời sự nóng hổi! Để bàn vấn đề này liên quan đến tổ chức,
quan điểm của Phật giáo, có lẽ phải bắt đầu từ những lý do căn bản
như sau.
1. Tại sao lại có phân biệt nam nữ?
Đứng ở góc độ nhân thế để mà bàn, F.Engels
cũng như C. Marx đã đưa ra lời nhận xét dí dỏm. Mới đầu ở chế độ
nguyên thủy, mọi người đều bình đẳng. Sau khi sự phân công lao động
lần thứ nhất của nhân loại ra đời, người phụ nữ ở nhà (thường là
hang động) đảm nhận vai trò, chăn nuôi, thuần dưỡng súc vật, trồng
trọt v.v… Đó là chưa nói đến thiên chức của người đàn bà là sinh con
để duy trì nòi giống, tham gia vào việc nuôi dạy con cái, nấu nướng
v.v…, người đàn ông đảm nhận vai trò đi săn bắn. Từ đó, năng suất của
người phụ nữ thường ổn định và phát triển, còn năng suất của người
đàn ông vốn bấp bênh, sau này lại càng bấp bênh vì “chim trời, cá nước” nên khi được khi
không. Đó là chưa nói đến việc đi săn bắt rất nguy hiểm, có khi phải
trả giá bằng tính mạng của mình. Chuyện này không phải hiếm. Về
kinh tế, cũng từ năng suất lao động quyết định nên người đàn bà giữ
vai trò chính, dần dà trở thành chế độ mẫu quyền. Một công thức
rất hiển nhiên là: khi người ta nắm kinh tế, trước sau người ta sẽ
nắm chính trị. Theo các nhà sử học, chị em đã “lên ngôi” trong khoảng 300 ngàn năm, nó bắt đầu từ thời kỳ
đồ đá mới! Đó cũng là một minh chứng để lý giải tại sao, sau này
chỉ nói riêng thời bà Trưng ở Việt Nam cũng có nhiều nữ tướng như
vậy. Với Việt Nam, chế độ mẫu quyền còn mang dấu vết đến ngày nay
như dân tộc Chăm và các dân tộc thiểu số khác.
Sau này cũng từ việc săn bắn thất bát, người
đàn ông trở về cùng người đàn bà thuần dưỡng súc vật. Đến lúc này
do sức vóc, sự dẻo dai, chịu đựng của người đàn ông tốt hơn, nên như F.Engels
đã đưa ra ví dụ, chỉ cần phải lùa một đàn cừu trên núi trong cơn
bão tuyết thì rõ ràng người đàn ông làm việc này tốt hơn người đàn
bà. Dần dà người đàn ông nắm kinh tế. Đối với người đàn bà, F.
Engels nhận xét rất dí dỏm: từ khi người đàn bà khoác lên vai kẻ
chiến thắng vòng nguyệt quế thì từ đó người ta phục tùng vô điều
kiện! Đến đây, rõ ràng kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng!
2. Tư tưởng trọng nam khinh nữ của phong kiến
Nối tiếp từ chế độ phụ quyền, chế độ phong
kiến hầu hết cả phương Đông và phương Tây, nhìn chung đều giống nhau
là tư tưởng đẳng cấp và trọng nam kinh nữ. Chỉ nói riêng ở Ấn Độ
thời Phật còn tại thế, Bà La môn (Bràhmana) đã chia con người trong
xã hội đó thành bốn đẳng cấp:
1. Bà La Môn (Bràhmana): đây là đẳng cấp tối
linh, chủ trương về việc nghi lễ và tôn giáo.
2. Sát đế lỵ (Khattiya): đẳng cấp vua quan,
tướng binh, nắm quyền thống trị.
3. Tỳ Xá Vệ (Vessa): đẳng cấp bình dân, công,
nông, thương.
4. Thủ Đà La (Duddra): đẳng cấp tiện dân, bần
cùng, nô lệ.
Điểm chú ý sự kỳ thị giữa các đẳng cấp này
rất nhiệt ngã. Chẳng hạn cấm được kết hôn với nhau. Có trường hợp
nếu người nô lệ chỉ nhìn vào giếng nước của đẳng cấp trên thì cái
giếng ấy được coi là nhơ bẩn, không dùng được nữa và người nô lệ
này phải bị ném đá cho đến chết! Đi theo tư tưởng này cùng với vấn
đề lịch sử như trên, dĩ nhiên vai trò của người phụ nữ rất thấp
kém. Người phụ nữ thời ấy bị khinh rẻ và chỉ là những món đồ chơi
của đàn ông. Sự bắt cóc, cưỡng ép, buôn bán phu nữ, thiếu nữ thường
xuyên xảy ra. Trong đời sống thường nhật, người phụ nữ phải chịu khá
nhiều về thiệt thòi: không được ra khỏi nhà, nếu không được phép và
không có mạng che mặt; không có quyền trong sinh hoạt xã hội và tôn
giáo…
3.
Vai trò phụ nữ trong Phật giáo
Có thể nói, hơn 95 học phái tư tưởng, tôn giáo
lúc bấy giờ, đạo Phật ra đời như một ngôi sao lớn nhất, tỏa sáng
lung linh trên bầu trời đầy sao của trí tuệ; một hồi chuông lớn gióng
lên, đánh vào Bà La môn giáo cả 3 phương diện: xã hội; tôn giáo và
nghi lễ.
Khác với nhiều hệ tư tưởng đương thời, Phật
giáo xây dựng trên cái nền bình đẳng giai cấp. So với các hệ tư
tưởng Đông Tây cả đương thời và sau này, tư tưởng bình đẳng của Phật
giáo rộng vô biên như tấm lòng của Bồ Tát và Phật vậy! Một lời
tuyên bố nổi tiếng của Phật trong kinh Tăng Chi đủ chứng minh cho tư
tưởng bình đẳng rộng lớn của Phật giáo, trong này bao hàm sự bình
đẳng nam nữ, sự giải phóng phụ nữ, mà các hệ tư tưởng khác nhìn
chung đã không làm được:
“Ví như, này
Pàhàràda, phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamuhà,
sông Aciravatì, sông Sarabhù, sông Mahì, các con sông ấy khi chảy đến
biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này
Pahàràđa, có bốn giai cấp này: Sát đế lỵ, Bà La Môn, Phệ xá, Thủ
Đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong pháp
và luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng
trước, và chúng trở thành những Sa môn Thích Tử” (1)
Trước và sau khi thành lập giáo đoàn Tỳ kheo
Ni, Phật đã nhìn thấy năng lực của phụ nữ không thua kém đàn ông về
tu chứng và giải thoát. Có thể nói, Phật là người đầu tiên trong
lịch sử nhân loại đã nhìn thấy và nâng cao vị trí của hàng phụ nữ
đến mức quan trọng nhất. Câu chuyện về bà Mahaprajapatì (kế mẫu của
Thái tử Sĩ Đạt Ta) liên quan đến giáo đoàn Tỳ kheo Ni, dù có người
nhầm lẫn về sự đắn đo của Phật, nhưng nó đã minh chứng cho điều
đó.
Ngoài ra, Phật còn đánh giá rất cao vai trò
của phụ nữ trong gia đình, trong quan hệ xã hội. Điều này được thể
hiện trong Kinh Thiện Sinh và các kinh khác.
4.
Phụ nữ ngày nay
Ngày nay, trên khắp thế giới đã dấy lên phong
trào giải phóng phụ nữ, cũng tức là giải phóng trong tư tưởng phong
kiến trong đầu người đàn ông quan niệm về phụ nữ. Với khoa học phát
triển, với phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng bùng nổ, phụ
nữ nhận thức được rằng: họ chẳng có điều gì thua kém nam giới.
Thậm chí, có những mặt phụ nữ còn vượt trội hơn nam nhân.
Từ mục đích cao cả của nhà Phật là giải
thoát (cũng có nghĩa là giải phóng), đến đây chúng ta mới thấy đức
Phật là một nhân vật thật vĩ đại. Ngài đã làm một cuộc cách mạng
long trời, lở đất từ hơn 2500 năm về trước. Chẳng những Ngài giải
phóng phụ nữ thoát khỏi sự kìm kẹp, áp bức của xã hội, mà còn
tạo điều kiện cho phụ nữ vững bước vào đời, tự quyết định tương lai
của mình.
Trong ánh sáng tâm linh của đức Phật, không có
vấn đề kỳ thị, mà trái lại, mọi người, mọi loài đều hiển thị
đúng chỗ của chúng, đều cần thiết ngang nhau, đều bình đẳng như nhau.
Trong giáo đoàn Phật giáo, người phụ nữ thật sự được tôn trọng,
được kính nể, được đề cao như một vị Phật tương lai.
-----------------------------
(1). Giáo hội Phật giáo Việt Nam, KinhTăng
Chi Bộ, tập III, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện nguyên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành 1996, tr. 562
No comments :
Post a Comment