... Bà già điên vừa gặp lại con….
Hồi mới đổi về dạy học nơi vùng ven
biển, tôi có nghe các bạn đồng nghiệp kể chuyện người đàn bà điên sống
trên một ngọn đồi. Mấy cậu học trò thì bảo:
- Tụi em hay lên đồi hái hoa sứ. Bà già
điên ở trong một am thất bỏ hoang, suốt ngày cứ nói lảm nhảm như ma
nhập. Người lớn cấm ngặt chúng em lên đó. Vì nghe nói thời chiến tranh,
trên đồi có nhiều người chết oan. Những vong hồn uổng tử vẫn còn lẩn
khuất chưa siêu độ. Vị sư cư trú trong thảo am cùng chú tiểu- con của bà
cũng bị bọn Tây bắn chết quăng xác xuống biển…
Câu chuyện thật thương tâm. Muốn tìm
hiểu thực hư về người mẹ gặp lại con sau chừng ấy năm trời, nên sẵn dịp
đến thăm bịnh một em học sinh, tôi liền tìm lên đồi hoa sứ...
… Thuở ấy có người con gái làng chài,
vừa bước qua tuổi đôi mươi, tâm hồn thơ ngây mộc mạc như cỏ nội hoa
đồng. Không thuộc loại sắc nước hương trời, nhưng cô cũng có chút duyên
ngầm xinh xắn đáng yêu. Những ngày rỗi việc, cô theo chúng bạn lên đồi
hái hoa ngắm cảnh nên biết có vị sư ẩn tu trên này. Từ đó cô thường lui
tới thảo am dâng hương cúng Phật. Và cũng từ đó...bao chuyện đời dung
rủi đẩy đưa người con gái vào trong mọi khúc quanh bi lụy đoạn trường.
Thời Pháp thuộc, dân miền biển vốn nghèo lại càng khốn khổ vì nạn sưu
cao thuế nặng. Bọn quan lại thừa nước đục mạnh tay bóc lột dân đen đến
tận xương tủy. Cha cô gái cũng nằm trong số người bị bắt bớ giam cầm vì
không đủ tiền đóng thuế thân.
Bước đường cùng, cô gái đành nhận lời
lấy một hào phú góa vợ trên phố để cứu cha thoát khỏi vòng lao lý. Về
làm dâu nhà giàu, thân cô hứng chịu muôn vàn nỗi đắng cay tủi cực. Rồi
cô có thai và sanh con. Niềm vui lớn lao của người mẹ trẻ thoáng chốc
chẳng tày gang, khi tai bay vạ gió bất ngờ ập tới. Đứa con riêng của
chồng trong lúc vui chơi chè chén gây sự đả thương một viên quan pháp,
phải vào tù. Mẹ chồng buồn phiền lâm trọng bịnh. Gia đình nhà chồng liên
tiếp xảy ra bao chuyện trộm cắp thua lỗ kiện cáo. Sau khi lo chạy án
cho con, thuốc thang cho mẹ, thì gia sản nhà hào phú cũng gần khánh
kiệt. Nghe lời thầy pháp, ông cương quyết đuổi hai mẹ con cô ra khỏi
nhà, cho rằng đứa bé không phải là máu mủ của mình…Và chính cô đã mang
điều xúi quẩy đến cho gia đình họ. Không lời biện bạch. Cô ôm con trở
lại xóm chài trong tâm trạng uất nghẹn đau khổ tột cùng…
Về nhà không bao lâu, cô gái do quẩn trí
quá mà sanh bịnh, suốt ngày khóc than vật vả, lúc mê lúc tỉnh. Người
dân biển vốn kiêng kỵ dị đoan, họ cho cô bị tà ma quấy phá, phải đem cho
đứa con thì người mẹ mới mong khỏi bịnh mà xóm làng cũng được bình yên.
Chẳng thể làm gì khác, cha mẹ cô bèn đưa cháu lên đồi gởi cho vị sư.
Cảm cảnh thương tâm, sư nhận lời nuôi nấng đứa trẻ. Những lúc hồi tỉnh,
cô cũng tìm lên đồi thăm con... Thế là người ta bắt đầu đồn thổi cho
rằng đứa bé chính là con của vị sư. Mọi người không ngớt dè bỉu nặng
lời: “Nhà sư phá giới phạm trai, làm khổ đời con gái người ta, tu gì mà
tu…” Họ khinh bỉ xem thường Sư ra mặt. Trước sau Sư vẫn im lặng nhẫn
nhịn. Ngày ngày Sư cuốc đất trồng cây, lượm hoa sứ bán cho những lái
buôn xa. Hai thầy trò đắp đổi qua ngày. Thắm thoát, đứa bé ở với Sư được
bảy năm.
Nghe nhiều người nói, bà mẹ gã hào phú
mới tìm lên đồi...xúc động khi thấy chú đạo nhỏ giống con trai mình như
đúc. Bà về bàn với con, lên thưa Sư xin nhận lại cháu nội. Bấy giờ mọi
người mới vỡ lẽ. Thì ra lâu nay họ nghi ngờ một nhà tu hành chơn chính.
Họ đã nặng lời khinh miệt biết bao. Vậy mà sư vẫn không một lời phân
trần giải thích. Lòng từ bi đức độ và tâm nguyện nhẫn nhục của nhà sư,
khiến mọi người càng khâm phục kính ngưỡng.
Gia đình nhà hào phú chưa kịp lên đưa
con về thì tình hình an ninh trên đồi đã trở nên bất ổn. Nơi đây gần cửa
biển, là vùng chiến lược quân sự và một cuộc chiến sống chết dành lại
chủ quyền sắp xảy ra. Dân quân cách mạng vừa đến dựng trại ngay dưới
chân đồi. Người ta khuyên nhà sư dời đi nơi khác, nhưng ông còn chần
chừ. Thế rồi một đêm, cả làng chài bừng thức dậy khi nghe tiếng súng nổ
dữ dội vọng lại từ đồi hoa sứ. Mọi người nơm nớp lo âu. Tàu chiến Pháp
có chỉ điểm, bất ngờ đánh úp lên đồi. Dân quân yếu thế phải rút lui…
Vài hôm sau tình hình lắng dịu, dân làng
mới lần mò lên đồi, tìm tới thảo am. Cảnh vật điêu tàn. Thảo am bỏ
trống. Xung quanh đồi có nhiều xác chết, song không tìm thấy vị sư và
chú tiểu. Mọi người ra sức truy tìm suốt mấy ngày liền vẫn chẳng thấy
tăm hơi. Người ta lại xôn xao bàn tán. Người thì nhất quyết nói bọn Tây
khép tội nhà sư nuôi chứa quân cách mạng nên đã bắn ông và chú tiểu
quăng xác xuống biển. Người lại chắc chắn thấy hai thầy trò sư được dân
quân bảo vệ đưa ra khỏi vòng nguy hiểm. Có thể ông đã theo họ vào căn
cứ. Dân làng bán tín bán nghi, chẳng biết thực hư thế nào, chỉ còn biết
nguyện cầu và chờ đợi…Thời gian trôi qua, những cây sứ già cỗi vươn
cành, màu hoa rực thắm bao mùa. Duy có sư là bặt vô âm tín. Nghĩ sư đã
mất, mọi người cùng nhau xây ngôi tháp vọng để tưởng nhớ và lập bài vị
thờ cả hai thầy trò trong thảo am. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi. Biết bao
cảnh tang thương dâu bể đổi dời. Chuyện chú tiểu ngày xưa trở về quả là
điều không tưởng…
Tôi bước lên đồi. Choáng ngợp trước một
rừng hoa đại xum xuê rộng lớn. Những gốc cây sù sì, gân guốc tua tủa như
đôi tay lực sĩ mạnh mẻ vươn cao. Biển trời bao la... mây núi điệp
trùng. Dù là nơi thanh khí tu hành, nhưng cảnh trí còn nhuốm đầy màu sắc
u linh chết chóc…Từ ngày hai thầy trò vị sư mất tích, chẳng mấy ai dám
lui tới ngọn đồi. Duy chỉ có người mẹ mất con, một mình lang thang kiếm
tìm khắp nẻo. Về già, tâm trí có phần tỉnh táo hơn và vì không còn sức
xuống lên, bà ở hẳn luôn trên này. Dân làng cất căn chòi nhỏ phía sau
thất để bà trú ngụ, lại chu cấp gạo muối nhang đèn để bà sinh sống hằng
ngày lo khấn hương lạy Phật.
... Một bà lão già khọm, vận bộ đồ vạt
màu nâu bạc đang quét gom hoa sứ. Bà dừng tay khi tôi bước tới chào:-
Chú em mày lên thăm thầy phải không? Thầy đang ngồi thiền, đừng làm
ồn...
Trong gian tịnh thất nhỏ, duy nhất một
bức tượng Thích Ca ngồi yên vị trên chiếc bệ xi măng ám khói. Nhìn dáng
dấp cùng gương mặt vị sư ngồi thiền, bất giác tôi nhíu mày:-Vị thầy còn
rất trẻ, khoảng ngoài ba mươi. Đâu lý nào…Chưa tin lắm vào trực giác của
mình. Song rõ ràng đây không thể là chú tiểu năm xưa. Như vậy điều thần
kỳ mà người ta nghĩ, họa chăng chỉ nằm trong giấc mơ và tâm tưởng của
người mẹ già mà thôi .
“ Ngọn đồi Hoa Sứ bây giờ khác xưa
nhiều lắm. Một vị thầy người địa phương cám cảnh phong thủy hữu tình tìm
đến lưu trú tu niệm, sau đó mở Đạo tràng niệm Phật khuyến hóa người dân
trong vùng. Năm nay nhân ngày giỗ nhà Sư, luôn thể thầy khánh thành
ngôi chánh điện vừa được tôn tạo, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt độ cho
những vong hồn chết oan. Thầy Nhất Thiên có về dự lễ…Chúng em rất mong
thầy”
Cậu học trò viết thư kể về vùng biển quê
mình. Những ngày lưu trú nơi ấy, tôi thường lên đồi đàm đạo cùng thầy
Nhất Thiên. Sau này trở nên thân thiết hơn, tôi mới nói lên điều ngờ vực
trong lòng, thầy cười lớn:- Dĩ nhiên ai cũng dễ dàng nhận ra, chỉ có bà
lão… Mới đầu tôi định ra vùng này dưỡng bịnh ít tháng. Khi nghe người
ta kể câu chuyện thương tâm nên động lòng và cũng vì tò mò. Khi tôi lên
đây thì thấy bà đang quỳ lạy Phật rất thành tâm nên buột miệng kêu lên:-
Mẹ! Bà lão quay lại, sững người nhìn tôi giây lát, rồi bất ngờ sụp
xuống ôm chầm lấy chân tôi nức nở:- Phải con về đó không. Mẹ chờ con
suốt bao nhiêu năm nay. Mẹ lạy Bồ Tát, xin cho con trở về…Bồ Tát thật
linh ứng. Con ơi!
Thấy bà lão đáng thương quá, tôi không
thể làm gì khác hơn. Có lẽ từ nhiều kiếp xa xưa, tôi và bà đã là mẹ con.
Phật nói chúng sanh luân hồi qua lại cũng từng làm cha mẹ con cái với
nhau. Từ ngày nhận con, bà gần như hồi phục.
Tôi hỏi:- Nhưng ... e rằng rồi đây, bà sẽ biết mình ngộ nhận.
Thầy gật đầu :- Người bình thường đôi
khi còn ngộ nhận đây... có lẽ nghiệp lực của bà lão đang đến hồi xoay
chuyển. Hằng ngày bà chuyên tâm niệm Phật nghe kinh, vui sống với hiện
tại là được rồi. Tôi đến đây chỉ để trợ duyên bà vượt qua mọi khoảnh
khắc cuối đời.
Sau khi bà lão mất, tôi và vị thầy cũng
rời xa xóm biển. Cuộc sống vẫn bình lặng như bao giờ. Và dù cho điều
diệu kỳ hy hữu đã không xảy ra, nhưng bao đau khổ chấp mê của một đời...
thoáng chốc đã tan biến theo sương khói trần gian mộng ảo.
No comments :
Post a Comment