Giải thóat là xa lìa mọi sai lầm của các pháp của
tâm thức, không bị xúc thọ ái ràng buộc."trong sự
giải thoát là sự hiểu biết." Thật vậy, sự hiểu
biết sáng suốt, là tuệ tri, là cái biết vô thời
không, trong sát na hiện tiền. Khi hành giả tuệ tri
(biết của Trí) về lục căn, lục trần, hay lục thức, (Tâm
thức) và không có thời gian, thì xúc, thọ, ái
không có kẻ hở để khởi sanh. Như hành giả quán, "
tuệ tri ' Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"
thì dòng tâm thức ngừng chảy (vô thời không), tức là
không suy nghĩ thêm quan niệm , hay tư tưởng gì về
tâm thức đó. Khi xúc, thọ, ái không khởi sanh trong
tâm, thì đoạn được thân kiến cũng như chúng không
ràng buộc và gây ba độc, thì lúc ấy được giải thoát
khỏi các lậu hoặc và không có chấp thủ.
Phật giải rõ ràng pháp giải thoát,
"Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ
tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm
ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly
tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương;
yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các
xúc; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm
ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy
giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết:
"Ta đã được giải thoát". Và vị ấy tuệ tri: "Sanh đã
tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa"(Kinh Sáu
Xứ)
II. Hiểu
Biết Chân Thật Soi Sáng Sự Vô Minh
·
Vô Minh.
Trong Ðại Kinh Sáu Xứ, đầu tiên Phật giải về nhản
căn sắc trần và nhãn thức theo thường tình. Chúng ta
nhìn một vật thì không thấy không biết như chơn mắt,
không thấy không biết như chơn các sắc, không thấy
không biết như chơn nhãn thức vì chúng ta chưa hiểu
được chơn mắt, chơn các sắc, và chơn nhãn thức như
thế nào? Thật ra, Chơn mắt, chơn sắc, và chơn nhãn
thức là một khi nhìn một vật gì thì sử dụng một lần
mà thôi. Nếu dùng tiếp hay kéo dài thời gian là một
vật đó đã huyễn hóa hay mắt, sắc (vật), hay thấy (nhãn
thức) không còn nguyên thủy sử dụng mà đã xài qua
rồi, không còn mắt củ, vật đầu tiên, thấy nguyên sơ
cũng bị xúc thọ ái lăn trôi theo thời gian mà có
những khái niệm, nên mắt, sắc, thấy đã biến thể. Nói
chung, trong Trí (hay Tâm) chúng ta đều có chứa sẵn
biểu hiện Trí Năng, Tình Năng và Hoạt Năng, nên dây
thần kinh dẩn truyền lên não hình ảnh của chơn sắc
từ chơn mắt để có chơn nhãn thức thì đồng thời đã
xúc chạm dây thần kinh thị giác, có nhân nhãn xúc;
do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay
bất khổ bất lạc thọ. Vì chúng ta không thấy không
biết chơn cảm thọ như thường tình, mà có ái trước (ái
đã có trong A Lại Da thức) đối với mắt (mắt lập lại),
ái trước đối với các sắc (hình ảnh có sẵn tích tụ)
và ái trước đối với nhãn xúc (Xúc có sẵn trong trong
A-Lai-Da Thức: ký ức). Từ đó do duyên nhãn xúc này
khởi lên lạc thọ, khổ thọ , bất khổ bất lạc thọ mà
ái trước đối với cảm thọ ấy.
Khi chúng ta nhận thức và quán sát vị ngọt, chấp
vào ái trước (ký ức), rồi sự hệ lụy và say đắm nên
năm thủ uẩn được tích trử trong tương lai. Ái ấy
tái sanh, ưa thích ngũ dục. Thủ Hữu là tìm cầu và giữ lấy
những thú vui và tham luyến, sanh thân ưu não, thân
nhiệt não, và tâm khổ não. Nên tạo nên những cái có,
chính những cái sở hữu này là những nghiệp. Cảm thọ
thân khổ và tâm khổ.
Không thấy không biết như chơn lục căn, chơn lục
trần và chơn lục thức thì những hệ lụy và say đắm
cũng xãy ra tương tự như trên.Nói cách khác, không
thấy không biết chơn lục căn, lục trần, lực thức là
thể cách nhận thức sự vật một cách vô minh của tâm
thức thường tình.
Ngu si phải
sinh tử
Ngu Si hay Vô Minh: Avijja (p)—Avidya (skt)
là không giác ngộ. Vô minh là đầu mối của sanh tử
luân hồi, mắt xích thứ nhất hay mắt xích cuối cùng
trong Thập Nhị Nhân Duyên. Cái tâm ám độn, không
chiếu rọi được rõ ràng sự lý của các pháp. Vô minh
là si mê hay không giác ngộ, một trong ba ngọn lửa
cần phải dập tắt trước khi bước chân vào Niết bàn.
Đây là trạng thái sai lầm của tâm làm khởi dậy sự
tin tưởng về bản ngã.
Những lời Phật dạy về “Vô Minh” trong
Kinh Pháp Cú::
1) Người ngu
suốt đời gần gũi người trí vẫn chẳng hiểu gì Chánh
pháp, ví như cái muỗng múc canh luôn mà chẳng bao
giờ biết được mùi vị của canh;
2) Kẻ phàm phu
không giác ngộ nên đi chung với cừu địch một đường.
Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định phải
cùng ác nghiệp đi đến khổ báo. (Dharmapada 66).
3) Khi ác nghiệp
chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật,
nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, họ nhứt định phải
chịu khổ đắng cay. (Dharmapada 69).
4) Từ tháng này
qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ Cô-sa (cỏ
thơm), người ngu có thể lấy để nuôi sống, nhưng việc
làm ấy không có giá trị bằng một phần mười sáu của
người tư duy Chánh pháp. (Dharmapada 70).
5) Kẻ ngu xuẫn
thường hay muốn danh tiếng mà mình không xứng: chỗ
ngồi cao trong Tăng chúng, oai quyền trong Tăng lữ,
danh vọng giữa các gia tộc khác. (Dharmapada 73).
Vô mình cứ lặn ngụp trong sanh tử đều do
ngu si mà ra
Vậy,
·
Tâm Thức cần phải được biết
Thật vậy, trước hết chúng ta cần hiểu rõ các đặc
tính của Lục Căn, Lục Trần và Lục Thức, từ đó mới có thể
phát hiện những tri thức thiết thực cho mọi hành giả
khao khát đến Phật học cũng như pháp hành một cách
cụ thể mà thâm thúy.Theo HT. Thích Minh Châu dịch
phần Tóm lược của kinh Sáu Xứ: " Thế Tôn nói như sau:
-- Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần
phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết.
Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần
phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết." Đó
là cốt tủy của kinh.
Sáu căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý cần
phải được biết, tức là sáu nhân cần thiết để
tạo sự hòa hợp với sáu trần cần phải biết, là sáu
duyên tức Sắc, Thinh, Hương Vị, Xúc, Pháp mà
khởi lên sáu quả cần phải biết,tức sáu thức
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức,
Ý thức. Lục thức còn gọi là Tâm thức. Sự gặp gở ba
pháp của căn, trần, thức là xúc. Do duyên xúc
là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được
nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", chính do
duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ
sáu.(Kinh Sáu Xứ)
·
Hiểu Biết Chân Thật là Chơn Trí
Kế đến, Phật giải về nhản căn sắc trần và nhãn
thức theo chơn trí. Chúng ta nhìn một vật thì thấy
và biết như chơn mắt, thấy biết như chơn các sắc,
thấy biết như chơn nhãn thức vì chúng ta đã hiểu được
chơn mắt, chơn các sắc, và chơn nhãn thức theo thật
tướng của chúng như đã trình bày trên. Chơn mắt,
chơn sắc, và chơn nhãn thức là một khi nhìn một vật
gì thì sử dụng một lần mà thôi (vô thời gian). Nếu
không kéo dài thời gian thì vật đó còn nguyên thủy:
nó-là-nó tại đó và lúc đó, vô thời không hay mắt,
sắc (vật), hay thấy (nhãn thức) vẫn còn chơn nguyên,
thấy biết không bị xúc thọ ái lăn trôi theo thời
gian mà có những khái niệm, nên mắt, sắc, thấy biết
không thay đổi, cố định. Nói chung, trong Trí (hay
Tâm) chúng ta đều có chứa sẵn biểu hiện Trí Năng,
Tình Năng và Hoạt Năng, nên dây thần kinh dẩn truyền
lên não hình ảnh của chơn sắc từ chơn mắt để có chơn
nhãn thức thì đồng thời đã xúc chạm dây thần kinh
thị giác, có nhân nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này
khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ.
Vì chúng ta thấy biết chơn cảm thọ không có thời
gian, nên không có ái trước (trong A Lại Da thức)
đối với mắt (mắt không lập lại), không có ái trước
đối với các sắc (hình ảnh các sắc có sẵn tích tụ) và
ái trước đối với nhãn xúc (Xúc có sẵn trong A-Lai-Da
Thức: ký ức). Từ đó do duyên nhãn xúc này khởi lên
lạc thọ, khổ thọ , bất khổ bất lạc thọ mà không có ái
trước đối với cảm thọ ấy.
Khi chúng ta nhận thức và quán sát vị ngọt,
không chấp vào ái trước (ký ức), không có sự hệ lụy
và say đắm nên năm thủ uẩn không được tích trử trong
tương lai. Ái ấy không thể tái sanh, và không ưa
thích ngũ dục. Không có Thủ Hữu thì lấy gì tìm cầu
và giữ lấy những thú vui và tham luyến thì thân
không ưu não, thân không nhiệt não, và tâm không khổ não.
Nên thân tâm không thủ hữu gì cả. Cảm thọ thân và
tâm không có ưu khổ, được an lạc.
Tóm lại, nếu thấy biết như chơn lục căn, chơn
lục trần và chơn lục thức thì những hệ lụy và say
đắm không xãy ra. Nói cách khác, thấy biết chơn lục
căn, lục trần, lực thức là thể cách nhận thức sự vật
một cách sáng suốt vô thời không; đó cũng là sự nhận
thức của chơn trí.
Này các Tỷ-kheo, thấy và biết như chơn mắt,
thấy và biết như chơn các sắc, thấy và biết như chơn
nhãn thức, thấy và biết như chơn nhãn xúc. Do duyên
nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ
bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy
không ái trước đối với con mắt, không ái trước đối
với các sắc, không ái trước đối với nhãn thức, không
ái trước đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này
khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ;
vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy.
Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái
trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến
tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến
tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan
lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những
thân ưu não của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu
não được đoạn tận; những thân nhiệt não được đoạn
tận; những tâm nhiệt não được đoạn tận; những thân
khổ não được đoạn tận; những tâm khổ não được đoạn
tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc (Ðại Kinh Sáu
Xứ).
Cần nhớ, “Vô mình cứ lặn ngụp trong sanh tử
đều do ngu si mà ra”
Trí tuệ là căn bản để chuyển hóa ngu si
Đạo Phật là đạo giải thoát nói từ viễn cảnh cứu
cánh, nhưng trên thực tế thì trí tuệ mới là pháp căn
bản để chuyển hóa ngu si để Bồ Tát tu tập đến bờ
giác ngộ. Từ sự giác ngộ, Bồ Tát mở ra đường sáng
vượt khỏi đám mây mù của dòng tâm thức ngu si vốn
che khuất bầu trời trí tuệ. Tâm thức là nhận thức sự
vật (lục trần) bằng lục căn, nên lục thức hay tâm
thức vô thường và biến dị. Sự vật được nhận thức
chẳng qua là do duyên khởi hoặc giả danh, nên chúng
chịu luật sanh diệt theo thời gian ngay cả nhận thức
cảm thọ tưởng thức là những hành động liệt tri. Muốn
vượt thoát khỏi sự ngu si ấy tất phải dùng trí năng
soi sáng mọi biến đổi, vô thường của thọ, tưởng, và
thức (nói chung là dòng tâm thức) mà đến thế giới
bất sanh bất diệt, trong sáng và thường hằng. Trí
tuệ có khả năng trong sạch hóa mọi dòng tâm thức vẩn
đục bằng cách hư không hóa mọi ngu muội trong tâm.
Trong Đại Kinh Phương Quảng, Tôn giả Mahakotthita (Đại-Câu-hy-la)
vấn đạo với Tôn giả Sariputta (Xá lợi Phất) do HT.
Thích Minh Châu chuyển dịch từ tiếng Pali đã diễn
đạt pháp rèn luyện trí tuệ rất căn bản và rõ ràng.
Bồ-tát phá vô minh bằng cách hằng nghe
nhiều học rộng về Phật pháp, để trí tuệ càng ngày
càng tăng trưởng.
III. Hiểu
Biết Phân Biệt Ðược Ðiều Thiện Ác
Đức Phật thiết lập 10 giới (10 điều thiện)
nhằm nâng cao hơn nữa hành vi và tâm lý đạo đức của
con người, 10 điều ấy được thiết lập trên cơ sở hành
vi, ngôn ngữ và tâm ý.
Hành vi gồm có:
Không sát sanh,
Không trộm cắp,
Không quan hệ tình dục phi pháp.
Không trộm cắp,
Không quan hệ tình dục phi pháp.
Ngôn ngữ gồm có :
Không nói dối,
Không nói hai lưỡi,
Không nói lời độc ác,
Không nói lời phù phiếm ba hoa.
Không nói hai lưỡi,
Không nói lời độc ác,
Không nói lời phù phiếm ba hoa.
Tâm ý gồm có :
Không tham lam,
Không sân hận,
Không si mê tà kiến.
Không sân hận,
Không si mê tà kiến.
10 giời điều này thực sự bước vào lộ trình của
giải thoát, đây là giới căn bản cho cả tại gia và xuất
gia, khác với năm giới là bước đầu chỉ quy định
trong phạm vi, hành vi và ngôn ngữ là những biểu
hiện đạo đức cụ thể gây hậu quả trực tiếp, tuy vậy
vẫn chưa thể hiện được nguồn gốc, động cơ bên trong.
Luật pháp của xã hội cũng chỉ giới hạn ở mức độ hành
vi và ngôn ngữ mà thôi. Đức Phật dạy rằng, một
người thực hành 10 điều bất thiện thì
cuộc sống của họ là phi đạo đức, đồng thời không đạt
được mục tiêu hạnh phúc: "Này các Tỳ kheo, sát sanh,
lấy của không cho, tà hành trong các dục, nói láo,
nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm,
tham lam, sân hận và tà kiến, đây gọi là phi pháp và
phi mục đích" (Kinh Tăng Chi III). Ngài khuyên mọi
người nên sống đúng theo 10 điều thiện, như
vậy phù hợp với nguyên tắc đạo đức và quy luật của
hạnh phúc.
Tóm lại, đaọ đức Phật giáo được xây dựng trên cơ sở giới
luật và những giới luật ấy là những nguyên tắc nếu được
tuân thủ sẽ đem đến hiệu quả chế ngự dục vọng bản
năng, thiết lập các mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với thiên nhiên một cách hoà điệu;
xa hơn nữa, có thể tịnh hóa tâm thức thoát ly các
chướng ngại và ức chế tâm lý để sống một đời sống
hạnh phúc chân thật. (Giới Luật- Cơ sở của ĐẠO ĐỨC
PHẬT GIÁO. Thích Viên Giác)
Tàng Thức: Nơi
Chứa Nghiệp Thức
* Ý nghĩa của Nghiệp- Nghiệp là một trong các
giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui,
ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp
của quá khứ và hiện tại chi phối. Hễ nghiệp lành thì
được vui, nghiệp ác thì chịu khổ. Vậy nghiệp là gì?
Nghiệp theo chữ Phạn là ‘karma’ có nghĩa là hành
động và phản ứng, quá trình liên tục của nhân và quả.
Luân lý hay hành động tốt xấu (tuy nhiên, từ
‘nghiệp’ luôn được hiểu theo nghĩa tật xấu của tâm
hay là kết quả của hành động sai lầm trong quá khứ)
xảy ra trong lúc sống, gây nên những quả báo tương
ứng trong tương lai. Cuộc sống hiện tại của chúng ta
là kết quả tạo nên bởi hành động và tư tưởng của
chúng ta trong tiền kiếp. Đời sống và hoàn cảnh hiện
tại của chúng ta là sản phẩm của ý nghĩ và hành động
của chúng ta trong quá khứ, và cũng thế các hành vi
của chúng ta đời nay, sẽ hình thành cách hiện hữu
của chúng ta trong tương lai. Nghiệp có thể được gây
tạo bởi thân, khẩu, hay ý; nghiệp có thể thiện, bất
thiện, hay trung tính (không thiện không ác). Tất cả
mọi loại nghiệp đều được chất chứa bởi A Lại Da
và Mạt Na thức (hay gọi là Tàng Thức). Chúng
sanh đã lên xuống tử sanh trong vô lượng kiếp nên
nghiệp cũng vô biên vô lượng. Dù là loại nghiệp gì,
không sớm thì muộn, đều sẽ có quả báo đi theo. Không
một ai trên đời nầy có thể trốn chạy được quả báo:
Như trên đã nói, nghiệp là sản phẩm của thân, khẩu,
ý, như hạt giống được gieo trồng, còn quả báo là kết
quả của nghiệp, như cây trái. Khi thân làm việc tốt,
khẩu nói lời hay, ý nghĩ chuyện đẹp, thì nghiệp là
hạt giống thiện. Ngược lại thì nghiệp là hạt giống
ác. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy: “Muốn sống một đời
cao đẹp, các con phải từng ngày từng giờ cố gắng
kiểm soát những hoạt động nơi thân khẩu ý chớ đừng
để cho những hoạt động nầy làm hại cả ta lẫn người.”
* Nghiệp và quả báo - Nghiệp và quả báo tương
ứng không sai chạy. Giống lành sanh cây tốt quả ngon,
trong khi giống xấu thì cây xấu quả tệ là chuyện tất
nhiên. Như vậy, trừ khi nào chúng ta hiểu rõ ràng và
hành trì tinh chuyên theo luật nhân quả hay nghiệp
báo, chúng ta không thể nào kiểm soát hay kinh qua
một cuộc sống như chúng ta ao ước đâu. Theo Phật
Pháp thì không có thiên thần quỷ vật nào có thể áp
đặt sức mạnh lên chúng ta, mà chúng ta có hoàn toàn
tự do xây dựng cuộc sống theo cách mình muốn. Nếu
chúng ta tích tụ thiện nghiệp, thì quả báo phải là
hạnh phúc sướng vui, chứ không có ma quỷ nào có thể
làm hại được chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta gây
tạo ác nghiệp, dù có lạy lục van xin thì hậu quả vẫn
phải là đắng cay đau khổ, không có trời nào có thể
cứu lấy chúng ta.
Nghiệp đi vào tiềm thức như thế nào-: Khi
chúng ta hành động, dù thiện hay ác, thì chính chúng
ta chứng kiến rõ ràng những hành động ấy. Hình ảnh
của những hành động nầy sẽ tự động in vào tiềm thức
của chúng ta. Hạt giống của hành động hay nghiệp đã
được gieo trồng ở đấy. Những hạt giống nầy đợi đến
khi có đủ duyên hay điều kiện là nẩy mầm sanh cây
trổ quả. Cũng như vậy, khi người nhận lãnh lấy hành
động của ta làm, thì hạt giống của yêu thương hay
thù hận cũng sẽ được gieo trồng trong tiềm thức của
họ, khi có đủ duyên hay điều kiện là hạt giống ấy
nẩy mầm sanh cây và trổ quả tương ứng.(TĐVATP)
Giải Thoát
Nghiệp Thức.
Làm thế nào để chúng ta triệt tiêu nghiệp? -
Đức Phật dạy nếu ai đó đem cho ta vật gì mà ta
không lấy thì dĩ nhiên người đó phải mang về, có
nghĩa là túi chúng ta không chứa đựng vật gì hết.
Tương tự như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng nghiệp là
những gì chúng ta làm, phải cất chứa trong tiềm thức
cho chúng ta mang qua kiếp khác, thì chúng ta từ chối
không cất chứa nghiệp nữa. Khi túi tiềm thức trống
rỗng không có gì, thì không có gì cho chúng ta
mang vác. Như vậy làm gì có quả báo, làm gì có khổ
đau phiền não. Như vậy thì cuộc sống cuộc tu của
chúng ta là gì nếu không là đoạn tận luân hồi sanh
tử và mục tiêu giải thoát rốt ráo được thành tựu.
(TĐVATP)
IV.
Hiểu Biết Ðúng Giải Thoát Mọi Thực Tại
Giả Lập
Hiểu biết chơn thật giải thoát mọi thưc tại giả
lập (hay tri kiến) tức là tri thức đúng cái tri thức
sai lầm của chủ khách, là giải thoát mọi phiền não
nhân duyên chằng chịt, cũng là tự giác và giác tha.
Nhờ có lý trí (Tàng thức) mà con người
hiểu biết được vạn vật và ngay cả tâm trí của mình.
Khai ngộ là giải thoát lý trí ra khỏi kho chứa ràng
buộc nó. Tri kiến là cái giả lập của sự hiểu biết.
Cái Biết mới là thực, cái Bị Biết (Tri kiến) là
không thực, là cái giả lập của cái thực. Giải thoát
tri kiến có nghĩa là khôi phục lại cái thực tính của
tri kiến, tức là sự hiểu biết chân thật hay là chân
lý tối hậu.Vượt thoát khỏi đối tượng tìm đến tự tính
của nó là đường về chân nguyên. Lột xác tri kiến giả
lập để thể hiện tri thức thực sự tức là Tri thức
đúng hay Hiểu biết chân thật. Vậy tri kiến như
phương tiện hướng dẫn thực hiện.
Như ngón tay chỉ mặt trăng. Nhận thấy được mặt
trăng phải vượt thoát khỏi ngón tay, cũng như vậy,
vượt thoát khỏi tri kiến mới nắm bắt được thực tại.
Thực tại là tự tánh của sự vật. Những hình ảnh
của sự vật (thức) theo thời gian kết tựu (Tàng thức).
Thời gian đi từ tự tánh của sự vật: Chơn không,
Thực tại, Thực hữu. Thực chất là chân lý thì không
biến đổi. Ðã là chân lý thì phải thường hằng, bất
biến. Vì lẽ đó, cho nên ta có thể thấy lại trong
thực tại bên ngoài cái ý niệm thời gian, mà ta biết
một cách tuyệt đối. Ðó là ý niệm lại cái thực tại
thì không còn là thực tại, dù trải qua một sát na,
nó chỉ là một quá khứ. Tri kiến là tâm quá khứ.
Chân thể là sự trở lùi của Sử tính Thời tính, vì thời
tính là sử tính. Ấn tượng tri giác vận chuyển nối
tiếp như một dòng sông chảy xiết. Dòng nước trôi
chảy liên miên, những giọt nước không bao giờ lập
lại, nhưng những giọt nước đều có hình ảnh giống
nhau; do đó dù tự thể của chúng luôn luôn sai biệt,
nhưng hình ảnh chúng không sai biệt.
Muốn dẹp bỏ tâm quá khứ là trở về giọt nước ban
đầu của những giọt nước triền miên lưu chảy mà ta
đang thấy, giảm trừ thời gian từ hiện tại đến đầu
nguồn quả thật cũng là một giả vọng trong quá trình
tư duy mà thôi.
Trở về nguồn của thực hữu, cái hiện đang là, cái
hiện đang là đó, tức là không có tâm quá khứ vốn
mang nhiều tri kiến nặng nề, làm cho tâm hồn vẫn đục,
vọng tưởng triền miên không dứt. Ðó là ta mới giảm
trừ thời gian. Còn điểm trở ngại nữa cái tâm không
thì không còn trung gian của các căn nữa. Vượt khỏi
ngũ giác quan của mình để nguyên vẹn cái tâm không
trực nhận thực hữu. Là ta đã giảm trừ không gian và
thời gian, là hai yếu tố làm chướng ngại cho cái tâm
tự tại vậy. Tâm lúc bấy giờ thể nhập chốn tịch tĩnh
y nhiên. Thực tại, thực hữu chính nó là nó mà tâm
thể nhập ngay lúc ấy và tại ấy hiện tiền. Khi dùng
văn ngôn để diễn tả cái ý chỉ thì thực hữu ấy không
còn là hiện hữu nữa. Giải thoát tri kiến là tiến
trình tri thức đúng về nhận thức sai lầm tri kiến
giả lập, và giải thoát nó, để trở về thực thể tức là
tự tính tuyệt đối của tri kiến hay là con đường giác
ngộ. Vậy trong sự sống làm thế nào nắm bắt được chân
lý tối hậu ấy? Ðó là lối dụng công, là phương pháp
thiền, là cách giải tỏa những khắc khoải của con
người trong hàng vạn thế kỷ trước khi đức Phật ra
đời. Ánh sáng đuốc tuệ đã tỏa ra, đạo pháp tuyệt vời
của đức Phật đã phổ biến khắp quần sanh. Chúng ta
muốn nắm bắt chân lý tối hậu ấy, không gì bằng dùng
những phương tiện tối ưu do đức Phật đưa ra; mà
trong mọi cách, theo Phổ Nguyệt, chỉ có Trí rộng lớn
vô cùng tận, tức là Trí Bát Nhã Cứu Cánh, mới có thể
kham nhẫn tiến tới giác ngộ. Chúng ta cần triển khai
Trí Bát Nhã để thể hiện đạo sống hàng ngày, bằng
cách Thắp Sáng Hiện Hữu trong cái Tâm Bình Thường là
ta đã giải thoát mọi tri kiến giả lập hầu trở về
Chân Tính của vạn hữu. (Thực Tại và Chí Ðạo)
V.
Giác Ngộ Là Biết Gặp Thực Tướng Của Vạn
Hữu
a). Giác Ngộ
Giác ngộ tức là giải thoát, chính là tri nhận
thực tại một cách toàn diện không thêm không bớt, là vượt
khỏi thời không, là thể nhập cõi vô cùng hằng hữu,
vì hư không ảo tưởng và thời gian huyễn hóa làm ngăn
cách thế giới hiện tượng và cõi vô cùng.
Sau khi nhận thức được rằng các đối tượng là những
thực tại giả lập hay tùy thuộc, bậc trí giả thể
nhập vào chân tâm, còn gọi là tri thức nguyên thủy,
hay thực tại toàn diện. Lúc ấy người ta trực tiếp
nhận thức rằng chân lý vốn vượt ngoài nhị nguyên
tính, hay vượt khỏi thời không. Như đã trình bày,
những sự vật trong thế giới hiện tượng không những
do duyên khởi mà còn được nhận thức bằng nhị nguyên
tính và được xem là thực tại giả lập huyễn hóa,
phiền não hay là tạp nhiễm ngoại lai đã che mờ cái
tâm vốn thanh tịnh tự bản tính. Các thực tại tương
đối được kiến lập theo nhị nguyên tính không thật
theo quan điểm cứu cánh có thể tiêu trừ bằng tu tâm
một cách chính đáng. Sau khi những tạp nhiễm được
tẩy sạch, bản tính thanh tịnh trong sáng của tâm được
phục hồi.
Tâm thức được kiến tạo bằng nhị nguyên tính, trí phân
biệt, giới hạn bởi các căn là tri kiến của chúng
sanh vốn mang nhiều hệ lụy tạp nhiễm, phiền não, khổ
đau, sanh tử luân hồi mà nguyên ủy là vô minh. Việc
phân chia thiện và ác, khổ đau và hạnh phúc chỉ là ảo
tưởng, giả lập huyễn hóa nhưng những tri thức vụn
vặt này vẫn được ghi lại trong dòng tâm thức những
chuỗi nghiệp duyên nhân quả mãi lăn trôi theo thời
không.
Tri giác một đối tượng bình thường theo tiền ngũ căn
là một nhận thức sai lầm vì tri giác đó còn nằm
trong phạm vi thời không. Biết gặp Thực Tướng của
vạn hữu là nhận thức vượt khỏi thời không như đã
trình bày.. Như vậy Tri Thức Đúng cái Tri Thức sai
lầm của tiền ngũ căn là Giác Ngộ (Biết Gặp) Thực
Tướng của sự vật. Chân tâm được thể hiện bằng tánh
giác hay trí vô phân biệt, vô giới hạn, bất biến
trong cõi vô cùng hằng hữu, thanh tịnh tự bản tính
tức thực tại toàn diện tuyệt đối, tri thức nguyên
thủy hay chân lý tối hậu.(Khẳng Ðịnh Tính)
b). GiảI Thoát
Lập trường chủ yếu của giải thoát quan Phật
giáo là vượt ra ngoài cõi Dục (Dục giới) Phật giáo
không thừa nhận thế giới quan thần quyền lại cũng
không thừa nhận cái “Ngã” cá nhân bất biến, mà chủ
trương hết thảy đều do nhân duyên hòa hợp mà hiển
hiện, và sở cứ của nhân duyên là ý chí của chúng
ta. Do đó, nếu muốn được giải thoát, con người phải
cắt đứt mọi nhân duyên, nghĩa là diệt hết dục vọng
của ý chí. Theo các học phái khác, giải thoát tức
là đưa cái tiểu ngã của cá nhân trở về với Đại
ngã của một đấng sáng tạo ra vũ trụ. Nhưng Phật giáo
vì không thừa nhận thần quyền, nên gọi giải thoát là
Niết bàn, mà Niết bàn theo nghĩa đen là “dập tắt”,
nghĩa là dập tắt hết dục vọng tồn tại và lấy đó làm
lý tưởng cứu kính. Các kinh điển Đại thừa, nhất là
kinh Bát Nhã, đặc biệt thuyết minh về điểm này và
mệnh danh là “không”, “không không” rốt ráo là “không”.
Đó là chân tướng của vũ trụ, và khi đã đạt được chân
tướng ấy tức là đạt đến giải thoát, đến Niết bàn.(
Ðại Thừa Tư Tưởng Luận)
VI.
Kết Luận
Xuyên qua pháp học hiểu biết về tâm thức mà Phật
đã giảng rõ ràng cần giải thoát mọi nhân duyên khởi
sanh, tức sự sanh diệt đã dứt. Dòng tâm thức luôn
trôi chảy theo thời gian mà duyên theo xúc, thọ, ái
gây ra thân kiến, ba độc. Ba pháp (căn+trần+thức)
kết thành tâm thức vì chúng không có tự thể hay vô
ngã, chúng thay đổi luôn, nên chúng dễ bị nhận thức
sai lầm vì duyên xúc thọ và ái lôi cuốn theo thời
gian từng sát na sanh diệt luôn không ngừng nghỉ.
Phật đã dạy, đoạn diệt thân kiến, đoạn tận ba độc và
các pháp hành những gì được cảm thọ, những gì
được tạo tác, thảy đều là khổ. Do bội xả
(giải thoát bên trong) mà diệt tận các ái,
không kinh hãi, không sợ sệt, không nghi, không
hoặc, thực hành sự thủ hộ như vậy. Thủ hộ như thế
rồi không sanh ra lậu bất thiện, là lúc phạm hạnh đã
hoàn thành. Ngoài ra cần phải thực hành pháp giải
thoát nữa mới rửa sạch mọi sai lầm của dòng tâm thức
đang trôi chảy làm cho tâm thức không còn trở lui
trạng thái vẩn đục nữa. Sự tu chứng cần phải trải
qua nhiều cố gắng không ngừng nghỉ, giũ gìn giới
luật nghiêm minh, đặc biệt ly dục và tránh những
điều bất thiện. Phạm hạnh căn bản bước đầu tự nhìên
là khó khăn lắm; ý chí tìm cầu giải thoát đợi người
tu sĩ có cơ duyên hiểu biết chơn thật nắm bắt thành
tựu vĩ đại này phải có nguyện lực lớn. Theo bước
chân đi của đức Thế Tôn, bất cứ người cư sĩ hay tu
sĩ có đủ phạm hạnh hiểu đúng hành đúng những pháp
môn Phật dạy, thì dòng tâm thức được trong sạch hóa
ắt phải vượt khỏi bản ngã ác pháp vô thường ưu khổ
hay tiến xa hơn nữa là giải thoát dòng bộc lưu sanh
tử. Mong mỏi chúng ta có đủ duyên phước để thành tựu
quả vị không ngoài tầm tay chỉ e không có nguyện lực
đủ lớn để kham nhẫn mà thôi.
Phổ Nguyệt
Tham
khảo
Ðại Kinh Sáu Xứ và Kinh Sáu Xứ. HT. Thích Minh
Châu Việt dich, đăng trên website Quảng Ðức, phần
Kinh Ðiển:
http://www.quangduc.comÐại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận.Kimura Taiken, Hán dịch Thích Diễn Bồi, Việt dịch Thích Quảng Ðộ, tr ch trong website Tạng Thư Phật Học: http://www.tangthuphathoc.net.
Ðiều Giác Ngộ 5. Kinh Bát Ðại Nhân Giác. Phổ Nguyệt, trích trong website Tạng Thư Phật Học.
Giới Luật - Cơ sở của ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO. Thích Viên Giác trích trong website Thư Viện Hoa Sen: http://www.thuvienhoasen.org
Khẳng Ðịnh Tính. Phổ Nguyệt, trích trong website Tạng Thư Phật Học.
Tự Ðiển Phật Hoc Việt Anh. (TÐPHVA). Thiện Phúc trích trong website Quảng Ðức
No comments :
Post a Comment