Những người Cực đoan và Bảo thủ thường gắn chữ Nghiệp và Chướng duyên... như một định mệnh không thể thay đổi để cho người ta chỉ biết cúi đầu vâng mệnh...đó cũng là thủ đoạn và tính độc quyền của thể chế chính trị Tôn giáo có từ thời Cổ đại
Rite M. Gross – Thiện Ý chuyển ngữ
Những chướng duyên có thể giúp hành giả
trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy
cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng
nên trí tuệ và từ bi mới được nảy sinh. Nếu thấy như vậy, chướng duyên
chính là điều kiện có thể khiến sự giác ngộ xảy ra.
Thế nhưng, xuyên
suốt lịch sử của đạo Phật, sinh ra làm thân người nữ bị xem là bất hạnh,
một chướng duyên, nhưng không phải là một chướng duyên tốt giúp cho sự
giác ngộ; mà ngược lại, khiến cho sự giác ngộ cực kỳ khó khăn, nếu không
nói là không thể nào! Nhưng nếu chướng duyên là điều lợi ích trên con
đường tu, tại sao chướng duyên sinh ra làm thân nữ lại bị xem là khác
biệt? Không phải thân phụ nữ cũng có nhiều điểm tốt để trở thành vị thầy
dạy đạo đáng kính đó sao? Điều này chưa bao giờ là quy luật trong suốt
lịch sử Phật giáo, dù đã từng có một vài biệt lệ quan trọng. Ngược lại,
chúng tôi, những người phụ nữ, thường được bảo rằng: Không nên quan tâm
đến sự giác ngộ mà nên cố gắng tích lũy đủ công đức để được sinh làm
thân nam trong kiếp sau. Có 2 điều trái ngược cho rằng: Chướng duyên
giúp sức trên đường tu, nhưng sinh ra là thân nữ thì không. Như vậy, có
vẻ không ổn vì chúng gây ra một mâu thuẩn lớn ngay trong trọng tâm của
Phật giáo.
Nhiều người Tây phương theo đạo Phật
không biết được mâu thuẩn này, hoặc cảm thấy khó xử với khái niệm trên.
Họ có lẽ sẽ chối bỏ nó. Họ có thể chế giễu hay bực tức đối với những ai
nói lên điều này. Nhiều người sẽ chối phăng truyền thống trọng nam,
khinh nữ và địa vị ưu thế của người nam trong đạo Phật là điều không phù
hợp đối với Phật tử phương Tây, vì chúng ta đang sống trong một xã hội
tương đối bình đẳng. ‘Cuộc chiến phụ nữ bình quyền’ hiện đang ở đỉnh cao
trên xứ Mỹ hẳn sẽ làm thức tỉnh những ai còn có quan niệm rằng địa vị
ưu thế của người nam là chuyện của quá khứ!
Ưu tư và tư tưởng của các Phật tử đòi
bình quyền cho phụ nữ đã giải tỏa các cấu trúc cho rằng sinh làm người
nữ là một chướng duyên không thể thay đổi được, đã khám phá rằng học
thuyết kỳ lạ này đang lâm nguy, và đã giải thích rõ một vài nguồn gốc
lịch sử của chủ thuyết này. Các vị Phật tử này đã bác bỏ lời tuyên bố
cho rằng sinh ra làm người nữ là tiêu cực, là bất toàn, và cho thấy rằng
lời dạy này đi ngược lại với những giáo lý căn bản của đạo Phật. Thế
nhưng, sự kiện này vẫn tiếp tục ngoan cố cho rằng Phật tử nữ đối diện
với chướng duyên mà Phật tử nam không hề có. Phật tử nam chưa bao giờ
được bảo rằng họ có một khả năng tâm linh hạn chế vì họ là người nam.
Nhưng Phật tử nữ được thường xuyên cho biết là họ không có đủ những khả
năng này với lý do duy nhất là bởi vì họ là người nữ.
Những hành giả thực tập Phật pháp trong
vài thập niên có thể sẽ đánh giá cao những gì họ học được từ những
chướng duyên mà họ phải đối diện. Họ chắc cũng đã từng gặp một ai đó chỉ
bảo cho họ rằng trong lúc gặp những khó khăn họ nên học hiểu giá trị
của nó vì về lâu dài những khó khăn này rất là bổ ích. Tôi thường được
nghe những lời khuyên như vậy; nhưng luôn luôn có vẻ bề ngoài và đôi lúc
hàm ý mỉa mai. Tuy nhiên, giờ đây tôi trân quý những điều tôi học được
từ những chướng duyên mà tôi đã vượt qua, và tôi tự hỏi làm sao giúp các
học trò của tôi đánh giá cao những kinh nghiệm như vậy mà không mang vẻ
hợm hĩnh, thiếu trung thực.
Bất kể và như thế nào sự đánh giá cao đó
liên cang đến chuyện chướng duyên mà tôi kinh qua chỉ vì là phụ nữ, là
một câu hỏi Phật pháp quan trọng, và câu trả lời của tôi vẫn còn rất mơ
hồ. Tôi sinh năm 1943, và là một phụ nữ thuộc thế hệ trước, sinh làm
thân đàn bà vào thời ấy chắc chắn đã là một chướng duyên. Một chướng
duyên mà tôi có nên biết ơn chăng? Nhờ làm thân đàn bà mà tôi thành đạt
nhiều hơn hay tôi đã có thể thành đạt bằng một cách khác?
Cách đây vài năm, một nhóm bạn đồng
nghiệp trong những buổi hội thảo của tổ chức chuyên nghành đã có một
buổi thuyết trình vinh danh sự nghiệp đời tôi, một học giả thuộc tôn
giáo học. Vào buổi sáng cuối cùng của buổi hội thảo, tôi ăn điểm tâm với
một bạn đồng nghiệp nam mà tôi đã từng làm chủ bút chung cho một tạp
chí nghiên cứu về đạo Phật và đạo Cơ-đốc. Trong lúc chúng tôi đang ôn
lại những kỷ niêm quá khứ, anh ta nói: “Rita, bạn biết không, nếu bạn là
đàn ông thì bạn đã ngồi trên đỉnh vinh quang rồi đó!” Ý của chữ ‘ngồi
trên đỉnh’ có nghĩa là có một vị trí tốt ở một trường đại học danh
tiếng, một điều mà mặc dù đã có rất nhiều thành tích về mặt học thuật,
tôi chưa bao giờ được công nhận. Tôi đáp: “Nhưng làm sao biết được tôi
đã có thể tìm được một việc làm như vậy nếu tôi là đàn ông?” Tôi không
nghĩ rằng tôi theo đuổi công việc đang làm về giới tính nếu tôi là đàn
ông, và tôi cũng chắc rằng không có đề tài nào nổi cợm hơn trong đạo
Phật, hay lãnh vực học thuật trong 40 năm qua bằng môn học về giới tính.
Đó là một nan đề. Là một phụ nữ liên cang đến những chướng duyên nghịch
lý và độc đoán, nhưng ai có thể giải tỏa việc này ngoại trừ người thực
sự trải nghiệm chúng?
Câu chuyện về ‘chướng duyên’ sinh làm
thân nữ đã từng ám ảnh và hạn chế tôi trong suốt cuộc đời và sự nghiệp
không cần phải lặp lại. Điều cần nói là những cống hiến của tôi, như là
một nhà nghiên cứu, phê bình và xây dựng, liên quan đến giới tính và tư
tưởng phụ nữ bình quyền mà xuyên qua những tác phẩm đó tôi đã đóng góp
cho nền kiến thức của nhân loại. Nếu một người đàn ông khám phá những
điểm nổi bật và thú vị về đàn ông, chắc hẳn ông ta đã đi ‘đến đỉnh vinh
quang.’ Ngược lại, riêng tôi thì vẫn còn làm việc ở một trường đại học
địa phương. Ngay như sau khi tôi đã xuất bản 3 quyển sách, hoàn cảnh của
tôi cũng không khá gì hơn, ngoại trừ rằng, tôi được mời thỉnh giảng ở
các trường đại học danh tiếng, nơi mà họ dùng các sách của tôi để giảng
dạy.
Câu chuyện như vậy có liên quan gì đến
việc điều tra xem những chướng duyên có bổ ích gì cho hành giả, hoặc
sinh ra làm thân nữ? Trước hết, chúng ta phải đặt câu hỏi là: như vậy,
thực sự chướng duyên là gì? Nó không làm người phụ nữ giảm đi khả năng
hoặc thành đạt ít hơn; không có một sự bất toàn nào liên quan đến thân
và tâm thức là nữ nhân. Chướng duyên rõ ràng nằm ngay bên trong chính hệ
thống, một hệ thống thiên vị theo quan điểm của nam giới mà không dựa
theo lý lẽ hợp theo Phật pháp, và cũng chẳng thèm giải thích những thành
kiến kỳ thị như vậy. Đối với các vị cố vấn và đồng nghiệp của tôi trong
lãnh vực học vấn, dường như họ đều cho rằng quan điểm của người nam là
quan điểm duy nhất đáng quan tâm và hệ trọng. Dưới nhãn quan của những
người có ý niệm như vậy nên điều này được xem là ‘bình thường’, do vậy
mà tuyệt nhiên không cần phải cải chính gì cả. Trong đạo Phật cũng vậy!
Kinh Phật truyền thống thực sự công nhận, dù không công khai, rằng
chướng duyên về việc làm thân người nữ là do vị trí độc tôn của nam
giới, không phải do có cái gì sai trái trong thân người nữ. Theo bảng
liệt kê truyền thống về việc sai trái của thân nữ nhân bao gồm 3 điều
phụ thuộc và 5 tai họa, mà đều liên hệ đến địa vị độc tôn của người nam
trong xã hội, hay là sự đánh giá của người nam về sinh lý của phụ nữ, mà
không có ý kiến của người nữ. Nói chung, những ý nghĩ thuộc về văn hóa
độc quyền, nói theo kiểu nam giới khiến sinh ra những tư tưởng nhầm lẫn
như là một điều tự nhiên cần thiết và phổ cập.
Về việc nhầm lẫn này, các Phật tử, với
tạng pháp bảo giồi dào, lẽ ra đã dễ dàng nhận dạng sự sai phạm này: Xem
sự tương đối giống như là tuyệt đối. Cứ cho là vậy đi, sự sai lầm này
mang đến sự giải thích sai lạc về luân hồi. Dù rõ ràng nhận biết vô số
những sai lầm phạm phải, nhưng theo phân tích của đạo Phật truyền thống
đã không thừa nhận cái giả định nói rằng việc khiến cho địa vị độc quyền
của người nam trong xã hôi có vẻ tự nhiên là chỉ có về mặt hình thức
chứ không phải là thực sự tồn tại sẵn có.
Những chướng duyên to lớn nhất của chúng
ta thực ra có thể là người bạn đồng hành tốt nhất trên con đường tu
tập, nhưng có một tiền đề cần nêu ra: Ý niệm trên chỉ được thực dụng nếu
chướng duyên không tiêu diệt chúng ta trước. Chướng duyên có thể làm
hại người nhiều hơn là điều bổ ích, và có vẻ thường thường chúng là như
vậy. Chúng ta không nên tìm lý do để bào chữa mà bỏ qua những chướng
duyên có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tu tập như bần cùng, kỳ thị
chủng tộc hay giới tính, đồng tính luyến ái, hay đại loại như vậy, bằng
cách ngây thơ cho rằng chướng duyên là bạn lành trên đường tu. Nếu trình
bày không khéo léo, những lời bình luận trên chỉ có tính cách bề mặt và
có hàm ý mỉa mai. Một trong những khuyết điểm lớn nhất của tư tưởng đạo
Phật truyền thống đó là việc không sốt sắng lên án những vụ bạo động có
tổ chức, và thường quy những việc này cho nghiệp và khuyên mọi người
phải chấp nhận những bất công như là một hành động xứng hợp với luật
nghiệp quả. Trong trường hợp của tôi, chỉ vì tôi mang thân người nữ nên
khiến cho tôi có lý do muốn khám phá hết những vấn đề liên quan giữa
Phật pháp và giới tính từ thấp tới cao. Chướng duyên có công dụng như là
một vết thương cắt thẳng vào trái tim, một trở ngại làm yếu đi mục đích
của Đại thừa là tận dụng thân người quý giá của tôi để phụng sự cho
chúng sinh. Thế nhưng, nhờ nhìn thẳng vào mặt chướng duyên, một cách
kiên định và suốt cuộc đời tôi, nên tôi đã chuyển hóa chướng duyên của
mình thành một nguồn ơn phước cho chính mình và qua đó tôi đã có thể
giúp đỡ những người khác. Nhưng, những việc làm trên sẽ không thể nào
thành tựu nếu tôi nghe theo những lời khuyên cho rằng tôi đã hành động
quá đáng, rằng không có chuyện gì đâu mà phải ầm ĩ, rằng những điều tôi
thấy và nghe đều không hợp tình, hợp lý. Tôi đã may mắn không nghe theo
những lời khuyên trên. Tôi biết rằng cố bỏ qua hay đè nén một cái gì đó
rành rành sẽ chỉ làm vấn đề thêm sai lạc, như nó thường xảy ra cho những
người phụ nữ thiếu lòng tự trọng, tâm trí thiển cận, trầm cảm, và thiếu
những thành tựu đáng kể.
Trong giáo pháp Đại Ấn (Mahamudra) thuộc
Phật giáo Mật tông, hành giả được hướng dẫn tiếp xúc trực tiếp, sâu
thẳm, và trần trụi với những cảm thọ khó chịu, như là chấp thủ, mà không
thừa nhận hay chối bỏ nó, do vậy, mà giải thoát được sự trong sáng và
năng lượng giác ngộ của nó. Từ ‘tiếp xúc trực tiếp và trần trụi’ có tính
quyết định trong những lời dạy này. Lời chỉ dạy không nói gì về việc
phản ứng hay hành động đối với cảm xúc đó, và cũng không nói gì về việc
làm lơ toàn bộ câu chuyện. Không may, do sợ hành động quá đáng vì xúc
động mạnh thường dẫn người ta đến chỗ khuyên nên bỏ qua. Điều này có vẻ
an toàn hơn, nhưng chỉ trong giai đoạn ngắn mà thôi!
Sau vài năm đương đầu với những chướng
duyên ứng dụng thiền Minh Sát Đại Thủ Ấn (Mahamudra-based vipashyana),
tôi đã gặt hái được kết quả không ngờ đó là thuần hóa được cơn thịnh nộ
và sáng tỏ được nhiều điều về địa vị độc tôn của nam giới, trong đạo
Phật nói riêng và những lĩnh vực khác nói chung. Khi tôi bắt đầu viết về
đề tài này trong đầu thập niên 1980, tôi liền nghe rằng có những hành
giả nữ rất giận tôi. Tôi nghĩ có thể là vì họ tìm thấy một trong những
bài báo tôi viết khi đó về ‘làm sáng tỏ cơn bực giận,’ như là một sự đe
dọa đến cơn hờn mát của họ. Cơn giận có thể biến thành hờn mát vì nó
cung cấp cái cảm giác hợp tình, hợp lý là: ‘Tôi là người bực mình về sự
bất công này!’
Không lâu sau khi tôi xuất bản quyển sách tựa đề Đạo Phật sau Chế Độ Phụ Hệ (Buddhism after Patriarchy) năm
1992, một bạn đồng nghiệp báo cho tôi rằng một người quen biết đã gọi
ông ta và nói rằng tôi đã xử dụng nhiều nguồn kinh tạng quen thuộc nhưng
với một cái nhìn mới mẻ không ngờ. Ông ta bảo rằng; ‘sự giải thích của
bà ta rõ ràng rất chính xác! Tại sao chả có ai trong chúng ta trước đây
giải thích như vậy?’ Tôi nghĩ lý do rất đơn giãn: Điều này chưa bao giờ
nằm trong sự hiếu kỳ của ông ta vì là một người nam làm sao có thể để
tâm đến việc diễn dịch quy ước các kinh tạng theo kiểu nam giới độc
quyền! Sự thật rất đau lòng là người duy nhất có thể bẻ khóa giải thoát
tiềm năng của một chướng duyên, chính là người đang đối diện chướng
duyên đó. Nhưng một chướng duyên, theo định nghĩa, là làm suy yếu và
thêm cực kỳ khó khăn cho mọi sự chuyển hóa, thay đổi. Ai cũng biết rằng,
vì tự vệ, nên người nào không có quyền lực và đặc ân thường thấy rõ 2
mặt của sự việc. Chúng tôi có thể nhìn thấy từ quan điểm của người không
được ưu thế, cũng như những điều mà người nào được đặc quyền, có ưu
thế, không thể thấy. Điều này dạy cho chúng ta rằng, trong tất cả mọi
lĩnh vực mà chúng ta có được đặc quyền, mình phải biết khiêm cung. Đó là
lý do tại sao người da trắng thường không nhìn thấy sự kỳ thị chủng
tôc, hay người bình thường không hiểu người đồng tính luyến ái. Và cũng
chính lý do đó, các Phật tử phải càng thêm thận trọng về việc loại bỏ
vấn đề công bằng xã hôi vì bất hợp lý đối với Phật pháp. Nhưng kiến
thức, mà chúng tôi sở hữu được từ cách biết nhìn 2 mặt trái và phải,
thật là đau thương và cực kỳ khó chịu, và thấu hiểu được tuệ giác này
thật khó khăn và thường bị thất bại do những nổ lực tự hại mình.
Điều này có nghĩa là gì cho những người
gặp phải chướng duyên làm thân nữ trong một hệ thống Phật pháp do người
nam độc tôn? Trước tiên, thật là hệ trọng khi chúng ta thừa nhận chướng
duyên về mặt xã hội, không phải siêu hình. Căn cứ vào lịch sử Phật giáo
và điều kiện hiện tại của Phật giáo trên thế giới, cái gì (có tính cách
xì-căn-đan) sẽ tạo nên một sự chối bỏ thẳng thừng. Sự thống trị của
người nam trong đạo Phật chính thực làm tổn thương các nữ Phật tử, và
trong một chừng mực nào đó, làm tổn thương luôn cả các nam Phật tử. Nó
cũng là một việc hết sức hổ thẹn cho các Phật tử khi tuyên bố đạo mình
là một đạo hợp tình lý, nhân bản, và trên hết, từ bi.
Đây là thời điểm mà phụ nữ chúng tôi cần
có sự tôn trọng và hỗ trợ từ phía các pháp huynh nam và họ nên trao cho
chúng tôi cả hai thứ trên. Khi mà tuệ giác chúng tôi đau đớn dành được
từ cách biết nhìn 2 mặt phải và trái, bị nhóm độc quyền chối bỏ hay
không được đếm xỉa đến, thì sự đau khổ của những chướng duyên về sự kỳ
thị giới tính càng tăng cao thêm cường độ. Chúng tôi mong chờ các vị
giáo thọ và các pháp huynh nam nhận rõ những bằng chứng với tâm trong
sáng và thành thật. Chúng tôi cũng mong mỏi và xin các giáo thọ và Phật
tử nam đừng nói rằng vì sự giác ngộ vượt quá giới hạn giới tính, nên vị
trí độc tôn của người nam trong các lãnh vực Phật học không còn là một
vấn đề nghiêm trọng. Những tuyên bố như vậy thường gây ra hiểu lầm đáng
tiếc. Hơn nữa, chúng tôi cũng từ chối không làm theo điều mà một số Phật
tử bảo chúng tôi rằng sự đối kháng của chúng tôi về địa vị độc tôn và
phẩm hạnh cho nữ quyền là dựa trên bản ngã của chúng tôi và rằng, nếu
chúng tôi sáng suốt hơn thì nên chấp nhận những điều kiện đã được định
đặt trong xã hội. Chưa bao giờ có một nhóm Phật tử có địa vị ưu thế về
mặt xã hội lên tiếng về sự bất công trên. Chỉ có những nhóm bị áp bức.
Thay vì phải làm theo cái cách lý giải ngược ngạo như vậy, chúng ta có
thể quay lại yêu cầu các Phật tử nam ứng dụng lời khuyên của họ cho
chính mình, để chứng minh sự giác ngộ về vô ngã của họ bằng cách không
lạm dụng đặc quyền của mình.
Ví dụ, một hôm nọ tôi đi Bhutan với thầy
tôi, Khandro Rinpoche, và những học trò khác. Chúng tôi đến một chổ
linh thiêng do một người bảo vệ nam canh chừng, dù chúng tôi chả quan
tâm gì đến chuyện này cả! Nhưng hóa ra tác dụng của người bảo vệ nam là
không cho người phụ nữ đi vào chổ tôn nghiêm. Thầy tôi, em gái của bà,
và các nữ tu cứ tự nhiên đi đại vào. Bởi vì họ là bậc thầy có uy tín,
không ai dám ngăn họ lại. Khi chúng tôi, những học trò, chuẩn bị đi vào
bên trong thì bị ngăn lại tức thì và bảo rằng: ‘Không cho phép phụ nữ
vào.’ Một vài bạn nam người Tây phương vừa bước vào, vừa vẩy tay chào
chúng tôi. Còn chúng tôi, những người nữ, nổi xung thiên. Người nam
không chỉ lợi dụng ưu thế của mình mà còn hoàn toàn không hiểu tại sao
phụ nữ chúng tôi nổi giận đối với họ cũng như gã bảo vệ cửa. Thầy chúng
tôi bèn dẫn chúng tôi đến một nơi biệt lập để nói về biến cố trên. Một
người phụ nữ bèn hỏi, ‘Khi chúng con viếng thăm nữ tu viện, có một cái
phòng không cho người nam vào phải không?’ Một người đàn ông bạo gan trả
lời, ‘phải đó, phòng của đàn bà!’ Một người nam khác hỏi tôi rằng họ
nên làm gì trong tình cảnh đó. Anh ta chẳng hiểu nổi khi tôi đáp rằng,
‘Anh lẽ ra không nên vào trong mà nên ở bên ngoài với chúng tôi.’
Bất kể các pháp huynh của chúng tôi sẽ
bình tâm chấp nhận những sự thật rõ ràng đã phơi bày hay không, điều hệ
trọng là chúng tôi hành xử với tuệ giác về sự thật đó. Chúng ta không
nên rơi vào sự cám dổ của ba độc, mà độc hại nhất là vô minh. Chúng tôi
chịu nhiều áp lực từ các nam Phật tử và các vị lãnh đạo Phật giáo bởi vì
họ đơn giản không ngó ngàng gì đến những tài liệu lịch sử của đạo Phật
nói về những thành kiến đối với phụ nữ và địa vị ưu thế của nam giới
hiện nay. Phụ nữ được dưỡng nuôi trong nền văn hóa phụ hệ, bất kỳ là phụ
nữ Á châu hay Tây phương, đều dạy học cách làm hài lòng và chiều theo
các ông. Rốt cuộc, tránh đối đầu với đàn ông còn quan trọng hơn cà việc
nhận biết và bảo vệ quyền lợi của chính mình, nhu cầu của mình, và hợp
tác với những phụ nữ khác. Đó là lý do tại sao phụ nữ thường dạm nhờ nam
giới đề nghị những luật nghi dành cho nữ giới theo dòng truyền thừa của
họ, thay vì nhận biết rằng người nữ cũng có khả năng tương tự.
Vô minh thường biến dạng thành sự chối
bỏ hay không nhận biết rằng giới tính luôn là đề tài tranh luận trong
Phật giáo, rằng sự thực trong kinh Phật nhan nhản những mẩu chuyện và
phê bình, hạ thấp hay nhạo báng nữ giới và đề cao địa vị ưu thế của nam
giới. Từ lúc Bà di mẫu của Phật, Ma Ha Ba-Xà Ba-Đề (Mahaprajapati),
không chấp nhận lời từ nan để thành lập Giáo đoàn Ni, Các vị ni và một
vài vị tăng đã từng tích cực ủng hộ những lý tưởng về sự dung hòa giới
tính và tính bao dung, không kỳ thị giới tính hay thân nữ nhân. Thật là
một điều đáng buồn đến độ không hiểu nổi, khi có người Phật tử chối bỏ
truyền thống tuyệt vời đó, và xưa cũ từ thời đức Phật, mà tuyên bố rằng
những phong trào đương thời ủng hộ quyền lợi và nhu cầu của nữ Phật tử
là ‘ngoại lai’, bắt nguồn từ phong trào bình quyền của phương Tây. Người
phụ nữ đã bước một bước dài học cách hòa nhập và chiều theo nam giới;
dù phải bỏ qua những di sản và lợi ích, nhu cầu cho bản thân. Đã đến lúc
chúng ta không thể làm ngơ đối với cái phần di sản Phật giáo sai lầm và
nguy hại này, xem thân nữ là chướng duyên. Nếu ai đó có thể phá vỡ cái
khuynh hướng vô minh đối với giáo thuyết về thân nữ, thì họ là đầu tàu
phải chịu nhiều đòn sân hận dữ dội. Đạo Phật coi sân hận như là một sự
hủy hoại đối với phần tâm linh và nên cần tránh né. Sự chẩn đoán đó rất
chính xác. Một trong những điều khó khăn nhất khi đối đầu với chướng
duyên này là ý nghĩ sai lầm cho rằng không có gì thay thế cho cơn sân
hận đối với sự bất công; rằng nếu mình không nổi giận, thì mình là kẻ
không tình cảm. Nếu ai có thực hành thiền tập, sẽ thấy rằng cơn giận
thường không tồn tại lâu, và có thể thay thế bằng sự thấu hiểu sáng suốt
về nguyên nhân của nó. Nhưng sau khi đã thuần hóa cơn giận, chúng ta
không nên quay lại làm ngơ với nguyên nhân gây cơn giận phát sinh, mà
nên giải thích rõ ràng và chính xác sự sai lầm của việc nam giới chiếm
địa vị độc tôn trong Phật giáo.
Sự liên hệ giữa sân hận và tỉnh giác là
một trong những giáo lý bổ ích trong đạo Phật để học cách đương đầu với
những chướng duyên này. Một phụ nữ có lần hỏi sư phụ tôi làm sao giải
quyết cơn sân hận. Thầy tôi trả lời, ‘sân hận luôn luôn là hành động phí
thời gian’. Người hỏi sửng sốt, lầm bầm nói, ‘Nhưng còn cái chuyện mà
mình nên tức giận thì sao, như là bị đánh đập chẳng hạn?’ Ngay lập tức
thầy tôi đáp, ‘Tôi bảo cho cô biết sân hận là phí thời gian. Tôi đâu có
nói là cô phải từ bỏ cái tuệ giác của cô!’ Duy trì tuệ giác là căn bản.
Nếu ai đó không thích nghe về kết cục tốt đẹp của tuệ giác và tiếp tục
giận mình, đó là vấn đề của họ. Chúng ta không nên đè nén tuệ giác của
mình, nhưng nên giải thích hợp lý, không ác ý vì có người không muốn
nghe những điều khó chịu. Chúng tôi không muốn giới tính hóa Phật pháp
khi nêu lên vấn nạn kỳ thị giới tính và vị trí độc tôn của nam giới, và
chứng minh chúng có hại như thế nào. Câu trả lời duy nhất cho sự kết án
này là Phật pháp đã bị giới tính hóa từ lâu do những người đầu tiên dựng
lên chủ thuyết đạo Phật độc quyền cho người nam. Họ tuyên bố rằng sinh
làm thân nữ là bất hạnh và đề nghị giải pháp tốt nhất là nên tái sinh
làm thân nam hơn là muốn tạo ra sự bình đẳng trong Phật pháp lúc này.
Có một chiều hướng rất khác để đối đầu
với mọi chướng duyên, nhưng đặc biệt là cho chướng duyên có dính líu đến
sự bất công. Những người Phật tử sinh ra làm thân nữ thường bị chối bỏ
tiềm năng toàn diện của kiếp người quý giá. Điều này không may lẫn không
công bằng, nhưng trong kiếp người ai cũng đều dính líu đến một cái gì
đó trắc trở, hoặc bị từ chối một việc gì đó quan trọng dù không có lý do
rõ rệt. Ai biết cách sống với sự từ nan đó sẽ được xem là người thành
công về mặt hành trì. Sau khi, người này đã làm mọi thứ mình có thể để
vượt qua chướng duyên đó, dù là không được hoàn toàn mãn nguyện, liệu
người này có thể duy trì sự buông xả, tri túc, và hoan hỉ, tránh được sự
than thở và tự thương hại mình hay không? Làm được như vậy không phải
dễ, nhưng đây chính là lợi ích lớn lao nhất nhờ biết hành trì. Nếu có
người biết sống mãn nguyện trước những chướng duyên thử thách, người này
hiểu rằng sự an lạc của mình không phải do điều kiện, cũng như không
phải chỉ do những hoàn cảnh may mắn mà thôi. Sự thành tựu này mang đến
niềm hạnh phúc và bình an rộng lớn. Chắc chắn đây chính là lời dạy của
các vị đạo sư khi họ nói rằng chướng duyên chính là ơn phước về lâu, về
dài.
Một điểm cuối cùng xin được nhấn mạnh.
Vài chướng duyên, như kỳ thị giới tính và chủng tộc, nghèo khổ, đồng
tính luyến ái, không hòa đồng tôn giáo, hủy diệt sinh môi, và chủ nghĩa
dân tộc không thể nào tránh được trong kiếp làm người, nhưng nguyên nhân
gây ra là do ba độc tham, sân, si của con người. Vì vậy, chúng ta có
thể vượt qua được. Để thích ứng với chướng duyên sinh ra làm thân người
là đã đủ khó khăn rồi. Vì có một số người thích ứng được với những
chướng duyên do xã hội gây ra; không có nghĩa là cách biện hộ cho một ai
đó đề cao và trục lợi từ những chướng duyên này. Các vị Phật tử, đặc
biệt là các thầy giáo thọ, không nên bao giờ cho rằng vì có một vài
người biết cách sống với những chướng duyên do xã hội gây ra, nên những
việc làm như vậy được cho phép để các lãnh đạo Phật giáo, hay các tổ
chức Phật giáo tiếp tục làm. Đó là sự xuyên tạc và bóp méo lời dạy hữu
ích và khích lệ của Phật vì cho rằng chúng ta cảm kích những chướng
duyên như vậy, như là một ân phước lành trên đường tu.
*Vài dòng về tác giả:
Bà Rita M. Gross là tác giả nhiều sách
về Phật học, thầy giáo thọ, và giáo sư danh dự nghành tôn giáo tỷ giảo.
Những tác phẩm nổi danh của bà là Đạo Phật Sau Thời Kỳ Phụ Hệ: Lịch sử Về Quyền Giới Tính, Phân Tích, và Tái Cấu Trúc Đạo Phật , và Vòng Hoa Chiến Thắng Cho Tư Tưởng Bình Quyền: 40 năm Khám Phá Tôn Giáo.
Nguồn Anh ngữ:
The Man-Made Obstacle – Distinguishing between problems of human birth and problem of human making, by Rita M. Gross, published by Tricycle Magazine Online, June 8, 2014.
Tháng 7, 2014Thiện Ý chuyển ngữ
Theo thuvienhoasen.org
No comments :
Post a Comment