Một sự thật khác nữa là từ khi ta phát sinh ý niệm muốn hiến tặng
đến suốt tiến trình hiến tặng và mãi tận sau này mà ta cũng không hề có
tỏ thái độ phân biệt chọn lựa hay coi thường đối tượng, không có ý
muốn họ phải đền đáp, và không bao giờ cảm thấy tự đắc vì mình đã làm
được một việc tốt, thì ta sẽ nhận được toàn bộ năng lượng đền trả của vũ
trụ. Phần hồi đáp ấy có khi được nhân lên gấp bội...
Cho và nhận
Khi tặng quà cho một người nào đó, ta hay nghĩ rằng mình là ân nhân
của họ. Vì món quà ấy dù mang giá trị vật chất hay tinh thần cũng đều
góp phần làm cho họ được an vui và hạnh phúc
hơn. Nói chung, ta biết họ đã nợ ta một cảm xúc tốt. Nhưng nếu ta thật
lòng muốn tặng mà họ lại khước từ vì họ đã đầy đủ, hoặc họ không muốn
mắc nợ ta, hay họ đã không còn có mặt ở đây để đón nhận thì ý niệm hiến
tặng sẽ không thể nào thực hiện được. Cho nên người cho cũng cần người
nhận chứ không chỉ người nhận mới cần người cho. Và như thế không chỉ
người nhận phải cảm ơn người cho mà người cho cũng phải cảm ơn người
nhận, bởi cả hai đều là điều kiện cần thiết cho nhau. Điều này nghe rất
lạ, nhưng đó là sự thật rất hiển nhiên để tạo nên sự cân đối giữa các
mối liên hệ trong vũ trụ.
Một sự thật khác là khi ta hiến tặng những món quà mà mình rất yêu
quý hoặc đã từng bỏ ra rất nhiều công sức để làm nên và món quà ấy thật
sự có giá trị hữu dụng cho người kia, thì không những ta giúp họ được an
vui và hạnh phúc hơn mà chính ta cũng nhận được một nguồn năng lượng bù
đắp từ vũ trụ. Dù ta chỉ một lòng muốn
giúp đỡ chứ không có ý gì khác, nhưng năng lượng được phóng thích từ tâm
ý cộng với trị giá món quà sẽ kết nối với những nguồn năng lượng có
cùng tần số trong vũ trụ để phản hồi lại ta một hiệu ứng tốt đẹp. Hiệu
ứng ấy có thể xảy ra tức thì, nhưng cũng có khi đến những thế hệ sau thì
nó mới hội đủ điều kiện để hoàn tất. Và dù món quà hiến tặng không phải
là thứ ta yêu quý, hoặc không phải do chính công sức của ta tạo ra, cũng
không mang lợi ích thiết thực cho người kia thì ta vẫn nhận được sự
hồi đáp không nhỏ vì ta đã có thiện ý muốn giúp.
Một sự thật khác nữa là từ khi ta phát sinh ý niệm muốn hiến tặng đến
suốt tiến trình hiến tặng và mãi tận sau này mà ta cũng không hề có tỏ
thái độ phân biệt chọn lựa hay coi thường đối tượng, không có ý muốn họ
phải đền đáp, và không bao giờ cảm thấy tự
đắc vì mình đã làm được một việc tốt, thì ta sẽ nhận được toàn bộ năng
lượng đền trả của vũ trụ. Phần hồi đáp ấy có khi được nhân lên gấp bội.
Bởi đó là sự hiến tặng trong sạch, hoàn toàn vì đối tượng chứ không xen
ké quyền lợi của mình vào. Còn nếu ta chỉ chọn lựa đối tượng mình ưa
thích mới hiến tặng, hoặc luôn mong mỏi người kia ghi khắc công ơn mình
dù chỉ cần đáp lại bằng thái độ kính trọng, hay ta luôn thấy mình cao
thượng vì đã làm được một việc tốt, thì năng lượng đền trả của vũ trụ
tuy cũng xảy ra nhưng rất yếu ớt.
Trong trường hợp ta mượn đối tượng ấy để
đánh bóng tên tuổi của mình, hoặc để ta thực hiện việc tích phước với
mong muốn đời sống của mình sẽ được an toàn và hạnh phúc hơn, hay để ta
chứng tỏ giá trị của mình sau những thất bại thảm hại trong cuộc đời,
thì ta chỉ nhận được chút ít năng lượng từ món quà quý giá đã gửi đi.
Điều không ngờ là nếu nhờ vào hình thức hiến tặng đó mà ta thu về khá
nhiều quyền lợi thì tức là ta đã vay lại từ đối tượng kia một món nợ cảm
xúc. Dù họ không hề hay biết nhưng vũ trụ sẽ có bổn phận lấy lại của ta
bằng cách này hay cách khác để trả lại cho họ. Như vậy cho cũng chính là
nhận, mà cũng có thể trở thành vay nợ. Tất cả đều tùy thuộc vào tâm ý
của ta. Đó là lý do tại sao có rất nhiều người siêng năng làm công tác
giúp đỡ nhưng cuộc đời họ chưa bao giờ khởi sắc hơn, và thậm chí càng
giúp đỡ thì cuộc đời họ càng tăm tối hơn.
Thêm một sự thật kỳ diệu nữa là khi ta hiến tặng bằng tất cả tấm
lòng, trao đi một món quà thật sự quý giá đối với ta và mang tới giá trị
hữu dụng cho người kia, thì không những vũ trụ sẽ đền trả mà chính năng
lượng trong người nhận sẽ tự động bị hút về
người cho theo “quy luật cân bằng cảm xúc”. Mức cân bằng tùy thuộc vào
quan niệm về trị giá món quà và ý nghĩa của sự hiến tặng giữa hai người.
Nếu người nhận không còn đủ năng lượng dự trữ để hồi đáp thì vũ trụ vẫn
chấp nhận cho nợ, đến khi họ tích tụ thêm được năng lượng mới thì vũ trụ
sẽ tiếp tục thu lại để gửi đến ta cho đến khi cân bằng. Điều kỳ diệu
là lòng biết ơn, sự kính trọng hay tình thương chính là những nguồn năng
lượng giá trị nhất vì nó được sản sinh từ nền tảng vô ngã, nếu có được
nó thì ta sẽ không còn lo sợ bị mắc nợ nữa. Ngược lại, thái độ vô ơn sẽ
khiến cho món nợ nhân lên gấp bội, mà có khi đến nhiều thế hệ con cháu
của ta mới trả xong. Cho nên nhận cũng chính là cho, mà cũng có thể
là vay thêm nợ. Vì vậy, ta nên khôn ngoan từ khước những món quà không
thật sự cần thiết nếu biết năng lượng của mình không đủ để đền trả lại,
nhất là với những món quà được tạo ra từ năng lượng của đại chúng.
Truyền
thống Phật giáo đại thừa luôn nhắc đến nguyên tắc bố thí để trở thành sự
bố thí tuyệt đối, đó là “tam luân không tịch”- ba đối tượng gồm người
bố thí, người nhận bố thí và món quà bố thí phải nương tựa vào nhau thì
mới thành lập được. Thứ nhất – người bố thí phải thấy cả vũ trụ trong họ
cùng đang bố thí chứ không phải cái tôi biệt lập đang bố thí, đặc biệt
nhờ có người đón nhận thì ta mới thực hiện được việc làm này, nên trước
và sau khi bố thí trong tâm không hề có sự thay đổi; thứ hai – người bố
thí phải thấy món quà này cũng do sự góp mặt của vạn sự vạn vật
mới làm ra được, nên không có thái độ lựa chọn giá trị cao thấp của món
quà để bố thí; thứ ba – người bố thí không có sự phân biệt hay đòi hỏi
gì nơi người nhận. Cả ba điều này nếu xảy ra đầy đủ thì ta sẽ đạt tới
đỉnh cao của sự bố thí – bố thí không điều kiện hay sự bố thí trong sạch
nhất.
Nguyên tắc này có thể khiến ta không khỏi giật mình vì dường như xưa
nay ta chưa thật sự bố thí, phần lớn chỉ
là sự trao đổi cảm xúc qua lại: tôi cho anh cái này thì anh phải cho tôi
lại cái kia. Nhưng không sao, chỉ cần ta có ý niệm đúng đắn trở lại và
cố gắng luyện tập thói quen quan sát tâm mình mỗi khi muốn bố thí và
suốt tiến trình thực hiện để ngăn chặn những thái độ tiêu cực. Nếu trong
nhất thời không thể buông bỏ được thái độ bám víu vào hành động bố thí
của mình, thì ít nhất ta cũng đừng đòi hỏi đối tượng hay lợi dụng đối
tượng để trục lợi. Tất nhiên nếu tâm ta vẫn còn phiền não tham cầu và
chống đối thì sự hiến tặng sẽ không thể nào đạt tới mức hoàn hảo. Dù
vậy, càng tiến về nguyên tắc ấy thì ta sẽ càng tiến gần tới chân lý, để
người cho và kẻ nhận đều được lợi ích.
Phước và Đức
Truyền thống văn hóa Việt Nam luôn đề cao hai phẩm chất quý giá của
con người - đó là phước và đức. Phước là năng lượng được tạo ra từ hành
động hướng tới kẻ khác để giúp đỡ, còn đức là năng lượng được tạo ra từ
quá trình chuyển hóa năng lượng xấu và phát huy năng lượng tốt của bản
thân. Nhưng thực chất phước cũng chính là đức, và ngược lại. Vì trong
khi hướng tới kẻ khác để giúp đỡ, ta không ngừng quan sát thái độ bám
víu và đòi hỏi của mình để buông bỏ, như vậy là ta vừa có phước mà cũng
vừa có đức. Còn trong khi quay về chăm sóc nội tâm, tháo gỡ những cố tật
phiền não bảo vệ cái tôi, trở thành con người nhún nhường dễ thương,
luôn tỏa chiếu năng lượng an lành
và mát mẻ đến mọi người chung quanh, như vậy là ta vừa có đức mà cũng
vừa có phước. Nếu chỉ có phước mà không có đức thì lòng tốt ấy chỉ là
một sự đổi chác hay lợi dụng, còn nếu có đức mà không có phước thì đó
chỉ là hành động trốn tránh, ích kỷ. Sự thật phước và đức chỉ là hai mặt
của một thực thể. Thực thể ấy chính là vô ngã. Vì người cũng là vì mình
và vì mình cũng là vì người, bởi không có ranh giới khác biệt giữa mình
và người. Tùy theo hoàn cảnh mà ta cần phải chú trọng phần phước hay
phần đức nhiều hơn, nhưng ta không bao giờ được quên tính chất liên đới
không thể tách rời của chúng.
Cho nên trong khi quay về xây dựng đời sống nội tâm, ta phải thực tập
làm sao để chính ta và mọi người chung quanh đều được lợi ích, dù ta
chưa có hành động giúp đỡ nào cụ thể. Và trong khi hướng tới giúp đỡ mọi
người, ta cũng cố gắng thực tập làm sao để những đối tượng ấy thật sự
được lợi ích và chính ta cũng thấy an vui,
nhẹ nhàng và thanh thản dù ta chưa chính thức bước vào công trình chuyển
hóa tâm tính. Song thực tế thì thực tập phước thường dễ thất bại hơn
thực tập đức, vì ta rất dễ bám víu vào hành động hiến tặng được cho là
cao thượng của mình. Như vậy, quay về thay đổi chính mình trước khi muốn
chia sẻ với người khác, tự lợi rồi mới lợi tha, là con đường hợp lý
nhất. Tuy nhiên cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận lợi như ta sắp
đặt, vì vậy phải thông minh và bản lĩnh lắm ta mới có thể sử dụng phước
và đức một cách uyển chuyển và hiệu quả.
Vì người hay vì mình?
Có
một thiếu phụ nọ đến tìm tôi để tham khảo một quyết định. Con chó của bà
đã già yếu, không còn ăn uống được nữa và nằm bất động một chỗ. Bác sĩ
thú ý đã khuyên bà đừng để nó tiếp tục sống trong tình trạng như thế
nữa, phải tiêm cho nó một mũi thuốc để kết thúc. Bà ấy biết điều bác sĩ
khuyên là cần thiết, nhưng bà không làm được. Vì bà cảm thấy tội nghiệp
cho con chó, nó đã sống trung thành và thân thiết như một người bạn suốt
mười lăm năm qua - kể từ khi bà ly dị chồng và sống thui thủi một mình.
Tôi đã hỏi bà: “Nếu bà đã biết con chó đang trong cơn đau đớn như thế mà
bà vẫn muốn níu kéo thì thật sự là bà đang thương nó hay thương chính
bà?”. Bà ấy lặng im rất lâu mà không trả lời được. Tôi nói thêm: “Nếu bà
lấy cảm xúc cô đơn của mình ra để đặt mình vào nỗi khổ sở của con chó
thì bà sẽ hiểu nó muốn gì trong lúc này. Bà thật sự thương nó thì hãy
làm theo ý của nó đi. Bà phải can đảm chấp nhận sự mất mát này để đối
tượng thương yêu được mãn nguyện và hạnh phúc”. Nghe tới đây bà mới thấm
thía và an lòng chấp nhận.
Khi hay tin người thân yêu đang trong cơ
hấp hối, ta thường hốt hoảng than khóc và dốc lòng cầu nguyện cho người
ấy đừng chết. Câu hỏi đặt ra là ta thật sự muốn người ấy được sống vì
biết họ đang cần được sống, hay vì ta đang thương cho cái cảm xúc cô đơn
hụt hẫng của mình? Hai thái độ hoàn toàn khác nhau - một cái vì người,
một cái vì mình. Cũng có khi ta rơi vào tình trạng vừa vì người mà cũng
vừa vì mình. Nhưng ta thường không thấy được sự thật ấy nên lúc nào cũng
tưởng là mình đã hết lòng vì người kia, vì vậy mà sự cầu nguyện cũng khó
thành công. Bởi một trong những điều kiện để sự cầu nguyện thành công
là ta phải dồn hết 100% tâm ý để hướng đến đối tượng. Tâm chưa thật
trong sạch thì không thể vay nợ vũ trụ. Cũng như khi quyết định không
tha thứ hay trừng phạt người kia thì ta hay cho rằng mình phải làm như
thế mới giúp họ tỉnh ngộ. Nhưng sự thật là do ta bị cảm xúc tổn thương
khống chế và muốn phóng thích nó bằng hành động trả đũa. Bởi nếu hoàn
toàn vì họ thì ta sẽ có vô số cách hữu hiệu hơn so với những hành động
nặng nề kia, mà cách tốt nhất là dùng tình thương chân thành để cảm hóa.
Trong bài hát Để gió cuốn đi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tinh tế khi
viết: “Hãy nghiêng đời xuống, nhìn suốt một mối tình, chỉ lặng nhìn
không nói năng. Để buốt trái tim, để buốt trái tim”. Khi thật lòng muốn
giúp đỡ người nào, ta phải có khả năng thoát khỏi vai của mình để sẵn
sàng bước vào vai của người kia thì ta mới có thể gần gũi và thấu hiểu
họ được. Ta phải “nghiêng xuống” bên họ vì ta đang trong tình trạng lành
lặn, năng lượng dồi dào, và trong vị trí người hiến tặng. Nhưng phải
thêm hai điều kiện nữa: đó là khả năng im lặng quan sát mà không lên
tiếng trách móc hay buộc tội, và phải chuẩn bị tinh thần đón nhận những
năng lượng tiêu cực trong tâm người kia tràn ra bất cứ lúc nào - vì có
thể sẽ làm “buốt trái tim” ta. Biết sẽ chịu nhiều mất mát, thiệt thòi
trong khi cứu giúp mà ta vẫn toàn tâm chấp nhận là vì ta có một tấm lòng
lớn, một tình thương chân thật. Tình
thương chân thật là tình thương không có điều kiện hay rất ít điều kiện.
Nó rất nhẹ. Nhẹ đến nỗi gió có thể cuốn đi khắp ngàn phương - “Sống
trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió
cuốn đi, để gió cuốn đi”.
Tình thương đúng là món quà cao quý nhất
mà ai cũng cần. Dù ta hiến tặng bất cứ món quà nào đi chăng nữa thì tấm
lòng chân thật mới thật sự quyết định nên giá trị đích thực của sự hiến
tặng.
Tất cả cũng tàn phai
Chỉ tình thương ở lại
Những gì trao hôm nay
Sẽ theo nhau mãi mãi.
No comments :
Post a Comment