Thiền phái Trúc Lâm được Hòa thượng
Thanh Từ khôi phục lại, đang phát triển rộng ở Việt Nam. Cũng là lúc
Việt Nam đang bị giặc ngoại xâm quấy phá. Chợt nghĩ đến thời thịnh trị
của các vua Trần. Một dòng họ có đến 5 vị vua đều là phật tử, vừa trị vì
đất nước, vừa nghiên cứu nội điển tu hành, vừa khuyến giáo dân chúng
hành thập thiện. Có lẽ vì thế mà không có thời đại nào vàng son như thời
đại của chư vị, nhất là vào thời của Trần Nhân Tông. Không phải chỉ ở
mặt phát triển đất nước mà cả ở việc giữ gìn bờ cõi. Nhưng do đâu có sự
thịnh trị đó?
Do thiện nghiệp thời quá khứ chi phối
Rượu, từ xưa đến giờ vẫn được coi
trọng và không thể thiếu trong các nghi lễ cũng như giao tiếp. Nhưng vì
sao đó lại là giới cấm của người phật tử dù còn tại gia? Vì rượu dùng
nhiều thì gây xỉn, gây nghiện. Vấn đề nằm ở đó. Y học hiện nay đã nói
rượu gây tổn hại đến não bộ và các cơ quan trong cơ thể. Rượu làm mất đi
sự sáng suốt. Vua mà uống rượu thỉ bỏ bê việc nước. Dân mà nhậu nhẹt
thì sức khỏe tổn hại, năng suất làm việc yếu kém, hay gây hấn với gia
đình, chòm xóm, làm xã hội mất bình an. Nghiện rồi, phần «con» trong mỗi
người sẽ trổi mạnh.
Đứng trên mặt nhân quả hiện tại mà nói, uống rượu là nhân làm phát sinh tham dục, sân giận, chết chóc, gây hấn v.v…
Đứng trên mặt nhân quả vi tế mà nói, uống rượu chính là nhân cho ra cái quả tà kiến.
Tà kiến, là đánh mất cái nhìn đúng đắn
đối với những gì đang xảy ra ở thế giới này. Thế giới xảy ra đao binh,
nạn tai và đủ mọi tệ nạn xã hội như hiện nay, là do chúng ta đánh mất
cái nhìn nhân quả đối với thế gian, không tin “Ở hiền gặp lành”. Những
thứ như hàng gian, hàng giả, khủng bố, tham nhũng v.v… đều là kết quả
của tà kiến. Do không thấy được lý Nhân quả đang chi phối thế giới này,
nên mới thực hành những việc như thế. Vì không thấy nên lầm nhân lộn
duyên mà tạo tác những việc bất thiện.
Một quốc gia dù phồn thịnh, nếu người
trong nước, nhất là giới trẻ, dùng rượu bia nhiều như một loại mốt thời
thượng, thì về lâu về dài, vận nước cũng suy. Vì uống rượu là nhân sinh
ra tà kiến. Tà kiến là nguyên nhân khiến nhiều việc đáng tiếc xảy ra.
Trần Anh Tông đã phải chia tay với
rượu để làm một vị minh quân. Nếu ông không ngừng rượu, Trần Nhân Tông
cũng phế không cho làm vua.
4. Không tà dâm: Một
thiện nghiệp quan trọng nữa là «không tà dâm», là muốn nói đến những
loại tình cảm không chân chánh, trái với những qui định mà pháp luật đã
đặt ra. Cũng nói đến những loại tệ nạn có dính líu đến vấn đề ái dục.
Tình cảm không chân chánh mang lại bất ổn cho gia đình và xã hội, làm
ảnh hưởng đến tinh thần của lớp trẻ không ít. Tệ nạn ái dục, nếu phát
triển mạnh cũng góp phần không nhỏ làm bất ổn xã hội và làm hư hoại lớp
trẻ.
Người nghiêng về ái dục nhiều thì trí
tuệ thường kém. Đó là nền tảng bất lợi cho xã hội và đất nước. Vì thế
Trần Nhân Tông, ngoài việc đi khắp nơi giáo hóa chúng dân hành Thập
thiện, ngài còn cho phá bỏ các dâm tự. Bởi dâm tự biểu hiện cho việc ái
dục được đề cao. Ái dục nếu được đề cao thì luân thường đạo lý dễ mất.
Đó không là phải là nhân tố tốt để đất nước có thể phát triển theo hướng
vững mạnh.
5. Không tham dục: Nói
về tham dục, không phải «không tham dục» là phải ăn chay ngủ đất. Chỉ là
nên biết đủ với những gì nằm trong khả năng của mình. Thứ gì vừa phải
trong khả năng của mình cũng luôn tốt hơn cho những thứ làm quá khả năng
của mình. Ăn nhiều thì sinh bệnh. Ngủ nhiều sinh u mê v.v… Nói chung
những gì khiến chúng ta bất an, bất ổn như bệnh tật, tai ương, tù tội
v.v… thường là do mình đã đi quá phần khả năng cho phép này.
Những thứ mà chúng ta thấy hiện nay
như tham nhũng, làm hàng gian hàng giả, cắt xén, ép người để lợi mình
đều là biểu hiện của tham dục và trộm cắp. Đó là những loại tệ nạn khiến
dân nghèo nước tổn. Mọi công ích tốt đẹp cho xã hội không thể thực hiện
hoàn mãn. Bệnh tật tai ương cũng từ đó phát sinh. Chính vì thế, những
gì có liên quan đến tham dục, bản thân Trần Nhân Tông đã tự hạn chế,
được thể hiện rất rõ trong bài phú Cư trần lạc đạo: “Mình ngồi
thành thị, nết dùng sơn lâm… Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu
ngọc quí… Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay… Ba
phiến ngói gạch yêu hơn lầu gác”. Bài phú cho thấy dù đang ngồi ở
địa vị đế vương, ngài vẫn sống đạm bạc như kẻ ở núi rừng, không phải chỉ
ở mặt vật chất mà cả về mặt tình cảm, ái dục. Đó là những duyên giúp
Trần Nhân Tông có được những nhận định sáng suốt và những quyết định
đúng đắn trong việc trị nước và đánh thắng đại quân Nguyên Mông.
6. Không sân giận: Thiện
nghiệp cuối cùng không thể bỏ qua là «không sân giận». Sân giận là đầu
mối của những tệ nạn chết chóc hiện nay, cũng là cái nhân chia rẻ mọi
quan hệ tốt đẹp v.v... Sân giận rồi thì không còn tỉnh táo để nhận định
vấn đề cho được đúng đắn. Rượu và tham dục có liên quan đến sân giận.
Sân giận lại có liên quan đến thân nghiệp thân và khẩu nghiệp : Chửi
bới, đánh đập v.v… Người khôn ngoan hoặc có chánh kiến sẽ biết kiềm chế
cơn sân giận của mình.
Liên hệ thực tại …
Chế độ chính trị hiện nay không còn
như xưa. Quyền hành không chỉ tập trung trong tay một người. Điều đó có
nghĩa, phước đức cũng như trách nhiệm của cấp lãnh đạo không còn như
thời vua Trần. Tuy vậy, cấp lãnh đạo vẫn là những vị có trách nhiệm lớn
trong việc xây dựng và gìn giữ đất nước. Bởi việc thưởng phạt, tham
nhũng, ban hành các điều luật, tạo niềm tin đối với chúng dân v.v… đều
nằm trong tay chư vị, chỉ chư vị mới làm được.
Trong một quốc gia, thường không tồn
tại chỉ một tôn giáo. Đứng về mặt nghi lễ hình tướng và mục đích đến thì
thấy chúng có sự khác nhau. Nhưng đứng trên mặt thiện nghiệp, như Thập
thiện nghiệp nói đây, không phải chỉ có đạo Phật mới nói tới, gần như
tôn giáo nào thực sự vì lợi ích của con người cũng có ít nhiều các tính
chất đó. Vì thế, nếu y cứ nơi Thập thiện nghiệp mà hành xử, thì mọi tôn
giáo vẫn có tiếng nói chung. Cũng là nền tảng cho mặt đạo đức bình
thường ở đời, không cần phải có tôn giáo. Cho nên, thưởng phạt công minh
dứt khoát kẻ có công, người có tội; ban hành những điều luật ích nước
lợi dân; khuyến khích ủng hộ các việc làm mang tính tương thân tương ái;
phát huy tinh thần biết ơn và đền ơn; cũng như ngăn cấm các tệ nạn xấu
như rượu chè, cờ bạc, cá độ v.v… đều là hình thức dùng chánh pháp trị
nước. Là đang giúp tạo âm đức cho đất nước phát triển trong hiện tại và
tương lai.
Hiện nay, thiền phái Trúc Lâm của Hòa
Thượng Thanh Từ đang được khôi phục và phát triển khá rộng. Không chỉ có
thiền phái Trúc Lâm, mà còn rất nhiều Tông phái Phật giáo khác, cũng
đang thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp, dạy người hành thiện. Tam bảo có
điều kiện để phát triển mạnh như thế, chính là thiện khí tăng trưởng, là
phước lành của đất nước.
Vấn đề khó khăn hiện nay, cũng là nhân
duyên khiến mọi tệ nạn xảy ra, là khá nhiều người trong chúng ta không
có niềm tin đối với nhân quả. Trong khi nó là qui luật đang chi phối thế
giới này.
Không tin nhân quả nên mới sinh tham
nhũng, giết người, mua bán ma túy, sống không có trách nhiệm với bản
thân, gia đình và xã hội. Khiến quả xấu hiện hình thêm nhiều. Trên những
hiện hình đó, lại xảy ra những việc lầm nhân lộn quả khác. Ngay trong
môi trường giáo dục hay y học cũng xảy ra các tệ nạn. Đều là do không
tin có nhân quả. Tin có nhân quả, không ai dám làm những việc hại người
chỉ vì lợi mình.
Tuy vậy, hiện nay không phải không có
những lợi thế giúp hiển rõ qui luật nhân quả đang chi phối thế giới này.
Trong các ngành khoa học như vật lý, y học v.v… cho thấy mọi hành tác
đều đang diễn biến theo tiến trình nhân quả. Chỉ đối với vấn đề thiện ác
trong đời sống bình thường, vì nó vi tế, việc gây nhân gặt quả có khi
không diễn ra trong một đời mà nhiều đời, thành ngoại trừ những người
từng bị quả báo tức khắc, là tin vào nhân quả, còn lại, đa phần không
tin. Nhưng điều đó không có nghĩa là vấn đề nhân quả không tồn tại trong
tâm mỗi người.
Một lần, chúng tôi trên đường từ thiền
viện về nhà. Một người đàn ông vừa đi xe vừa nghe điện thoại. Vì thế xe
anh xém va vào xe chúng tôi. Nhưng anh không nhận ra điều đó. Anh dí xe
theo chúng tôi đến tận nhà với một thái độ rất hung hăng. Ông bạn không
nói, chỉ yên lặng đứng nhìn và nghe. Người đàn ông càng có thái độ lấn
lướt. Anh chỉ vào mặt ông bạn và nói: “Tao thấy mày già, không thì oánh
bỏ mẹ mày từ nãy giờ”. Tôi đẩy ông bạn vào nhà. Và nói với người đàn ông
trung niên: “Trên đời này, không phải muốn làm gì là làm. Còn có quả
báo nữa”. Thái độ hung hăng lập tức biến mất. Người đàn ông tái mặt lên
xe rồ máy. Có lẽ vừa bị một việc gì đó mà bây giờ mới có duyên để nhớ,
nên mới có thái độ mất bình tỉnh như vậy. Việc đó cho thấy, không hẳn
chúng ta không tin có nhân quả. Chỉ là không ý thức và không được nhắc
nhỡ để ý thức mà thôi.
Vấn đề còn lại cần giải quyết là làm
sao để tất cả chúng ta ý thức về qui luật nhân quả trong đời sống thường
nhật của mình, ngay từ khi còn bé. Nếu không được huân tập từ bé thì
khó mà có thể dùng pháp luật cản ngăn khi chúng lớn lên, dù đó án tử
hình.
Hiện nay, không phải không có điều
kiện để làm việc đó. Ngoài Tam bảo còn có những nhà ngoại cảm. Chứng
minh cho thấy mọi sự mọi việc rõ ràng hơn. Tôi được bạn bè chia xẻ cho
một bài đọc của tiến sĩ Vũ Thế Khanh, tổng giám đốc Hội Liên Hiệp Khoa
Học UIA. Nó chứng minh cho thấy, cuộc sống này không phải chỉ có đời
sống hiện tại. Mọi thứ vẫn đang tiếp diễn sau khi chết. Nghĩa là chết
chưa hết. Thành khi sống, nếu chúng ta chỉ biết tranh giành, hưởng thụ…
khiến người khác phải đau khổ, thì không thể tránh được sự báo thù. Mọi
thứ đều có cái giá để trả. Một thiền sư Nhật Bản đã nói: “Khi ta thấy rõ
vạn pháp trong thế giới này đều hạn cuộc và tương đối thì ta sẽ hài
lòng trong mái nhà tranh đơn sơ nhất”[10]. Mọi thứ đều có cái giá của
nó. Đều không qua khỏi “lưới trời”. Pháp luật, chúng ta có thể lướt qua,
nhưng “lưới trời” thì một con vi trùng cũng không thể lọt.
Cuối cùng là…
Hoàn cảnh của một người, những mối
liên hệ trong xã hội của người đó, cũng như sự tồn vong của một đất nước
không phải tự nhiên mà có, đều do nhân duyên của chính người đó tạo
nên. Người dân không thể đòi hỏi một chính quyền tốt đẹp khi bản thân
không tạo những cái nhân tốt đẹp. Cũng như chính quyền không thể đòi hỏi
ở người dân một sự nghiêm chỉnh, khi bản thân chư vị không nghiêm
chỉnh. Vì thế, việc cần làm hiện nay của mỗi người là cần làm tròn bổn
phận và trách nhiệm mình đang đảm nhiệm ở thế giới này. Trách nhiệm đối
với bản thân, gia đình và xã hội. Hoàn thành trách nhiệm của mình cũng
là hoàn thành thiện nghiệp. Thêm vào đó, cần chú ý và thực hành mười
thiện nghiệp. Nhiều chừng nào tốt chừng đó. Đó là nhân duyên để chúng ta
có được hoàn cảnh và điều kiện tốt đẹp trong hiện đời và tương lai.
Hành thiện nghiệp cũng giúp chuyển đi những nhân xấu mà mình đã lỡ gây
tạo trong quá khứ. Dùng đó để tự hộ thân và hộ quốc trong hiện tại và
tương lai.
[10] Bạch Ẩn thiền định ca – thiền sư Sessan - Ni sư Thuần Bạch và Hạnh Huệ dịch.
Theo thuvienhoasen.org
No comments :
Post a Comment