Trong hơn một thập niên qua, có
rất nhiều thông tin sai lạc về đậu nành khiến người đọc nhất là những
người ăn chay lầm tưởng đậu nành và các thực phẩm có nguồn gốc từ đậu
nành là không tốt, ăn vào không có lợi cho sức khỏe. Có 5 lầm tưởng hay
hiểu sai lạc về đậu nành như: (1) đậu nành gây ung thư, (2) đậu nành làm
suy yếu hoạt động tình dục, (3) đậu nành gây ra vấn đề tuyến giáp, (4)
đậu nành làm tăng nguy cơ bệnh tim, và (5) tất cả đậu nành đều là loại
biến đổi gen GMO.
May mắn thay, có một vị bác sĩ y khoa, rất am
tường về vấn đề này, sẽ trả lời cho chúng ta rõ ràng một cách khoa học.
BS. Holly Wilson hiện đang hành nghề bác sĩ y khoa tại các bang Florida,
California và New York, và là người ăn thuần chay từ năm 2007. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết của bà và hy vọng những thông tin sai lạc về đậu nành sẽ được giải tỏa. Những hàng chữ nghiêng trong dấu ngoặc đơn là chú thích của người dịch để giải thích cho rõ nghĩa.
Đậu nành từ lâu đã được công nhận là một loại thực phẩm dinh dưỡng
tốt và được đánh giá là một nguồn protein tuyệt vời bởi các chuyên gia
nổi tiếng trong lãnh vực thực phẩm và dinh dưỡng lâm sàng. [1] Đậu nành
chứa tất cả các amino acids thiết yếu, cũng như nhiều vi chất dinh dưỡng
(vitamin và khoáng chất). Vi chất dinh dưỡng trong đậu nành bao gồm:
canxi, sắt, magiê, mangan, phốt pho, kali, vitamin B1, B2, B3, B5, B6,
B9, C và kẽm. Chất xơ và axit béo omega-3 và 6 cũng có mặt trong đậu
nành. Thành phần các chất dinh dưỡng thay đổi tùy theo mỗi món thực phẩm
được chế biến từ đậu nành, nhưng nhiều nhất vẫn là các loại thực phẩm
đậu nành nguyên sơ như edamame, sữa đậu nành, đậu hủ và tempeh. Tuy
nhiên, bất chấp những lợi ích sức khỏe do thực phẩm đậu nành mang lại,
vẫn có những thông tin sai lạc về cái gọi là mối “nguy hiểm” tiêu thụ
đậu nành đang được phổ biến rộng rãi. Chúng tôi sẽ đề cập đến một vài
trong số những thông tin sai lạc bằng cách xem xét kỹ hơn một số nguồn
của sự nhầm lẫn và gây tranh cãi.
“Tất cả đậu nành đều là loại đậu nành biến đổi gen (GMO)!”
Nguồn tiêu thụ lớn nhất loại đậu nành biến đổi gen ở Hoa Kỳ và trên
toàn thế giới là làm thức ăn nuôi động vật để cung cấp thịt, trứng và
sữa cho con người. Đậu nành GMO là loại đậu nành đã được biến đổi cấu
trúc và vấn đề an toàn thực phẩm cho người tiêu thụ là chủ đề nóng của
các cuộc tranh luận; nhiều nước ở châu Âu đã cấm các nông phẩm biến đổi
gen GMOs. Hiện chưa có các nghiên cứu lâu dài và kết luận của các nghiên
cứu này về ảnh hưởng sức khỏe của GMOs đối với con người.
Nông phẩm biến đổi gen ở khắp mọi nơi và là nguồn cung cấp thực phẩm
cho chúng ta. Đậu nành biến đổi gen là một trong những mặt hàng thực
phẩm chủ lực. Hiện nay, 81% đậu nành sản xuất trên toàn cầu là loại biến
đổi gen, và khoảng 85% của tất cả đậu nành biến đổi gen này dùng làm thức ăn cho ngành chăn nuôi.
Đậu nành biến đổi gen là nguồn cung cấp protein chính cho động vật, và
nó không thể nào bốc hơi trong lò mổ hoặc trong nhà máy chế biến sữa. Nó
nằm trên bàn ăn của chúng ta. Thế nhưng người ta đã báo động rằng "tất
cả đậu nành đều là loại biến đổi gen “all soy is GMO”, và là một trong
những huyền thoại về đậu nành.
Trong số đậu nành được tiêu thụ trực tiếp bởi con người, thực phẩm
đậu nành không biến đổi gen như đậu hũ, tempeh và sữa đậu nành được bày
bán rộng rãi trong các cửa hàng, và chúng được dán nhãn hiệu rõ ràng là
loại đậu nành không biến đổi gen (non-GMO).
“Nghe nói đậu nành gây ung thư!”
Thông tin sai lệch về mối liên quan giữa đậu nành với bệnh ung thư chủ yếu xuất phát từ sự nhầm lẫn xung quanh sự hiện diện của phytoestrogen trong đậu nành (estrogen thực vật hay còn được gọi là thực vật nội tiết tố nữ). Các nhà khoa học nhấn mạnh rằng phytoestrogen không phải là estrogen. Estrogen (nội tiết tố nữ) và testosterone (nội tiết tố nam) là hai loại kích thích tố (hormone)
có sẵn tự nhiên trong cả hai giới tính nam và nữ của con người cũng như
ở động vật. Hai hormone này giúp điều hòa chức năng tình dục và những
chức năng ngoài tình dục. (Một trong
những chức năng chính của estrogen là giúp cho các cơ quan sinh dục tăng
trưởng, và làm phát triển các đặc tính nữ (như vú chẳng hạn). Trong
thời kì còn khả năng sinh sản, estrogen là một kích thích tố quan trọng
đóng vai trò điều hòa các hoạt động sinh học của cơ thể, kể cả sinh hoạt
tình dục. Nhưng sau thời kì mãn kinh, buồng trứng không còn sản xuất
estrogen nữa, và gây ra một loạt thay đổi tâm sinh lí trong người phụ
nữ, và dẫn đến một số bệnh mãn tính như ung thư, tiểu đường và loãng
xương.)
Trong khi estrogen đóng nhiều vai trò quan trọng mang lại lợi ích cho
cơ thể, nó cũng tự nhiên thúc đẩy sự phát triển của các tế bào, và ở mức độ cao
có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư bằng cách khuyến khích
các tế bào gia tăng nhiều hơn bình thường. Liệu pháp thay thế hormone ở
phụ nữ sau mãn kinh (cụ thể, chỉ lấy estrogen) cũng được cho là có liên
quan đến sự phát triển bệnh ung thư. [2] (Hiện
nay, một trong những phương án điều trị và phòng ngừa bệnh tật trong
các phụ nữ sau thời mãn kinh là liệu pháp thay thế kích thích tố (hay
còn gọi là HRT, hormone replacement therapy). Tuy nhiên, vài năm gần
đây, kết quả của một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy HRT có thể làm tăng
nguy cơ bị ung thư vú trong các phụ nữ có tuổi. Và vấn đề được đặt ra
là phải đi tìm một phương án chữa trị vừa an toàn vừa hữu hiệu hơn HRT.
Phytoestrogen được xem là một trong những phương án đó.)
Trong khi đậu nành không chứa estrogen, thực phẩm từ động vật lại có
chứa chất này. Nhiều người tiêu thụ biết rằng động vật nuôi được sử dụng
làm thực phẩm và sữa thường thường được trộn thêm vào thức ăn cho chúng
loại thuốc bổ sung hormone tăng trưởng tổng hợp, nhưng những gì họ
không lưu ý đến là thịt động vật và bò sữa cũng chứa estrogen và điều
này đúng ngay cả bò ăn cỏ và động vật hữu cơ (organic animals). Hơn nữa,
thịt, sữa và trứng đều có chứa kích thích tố nữ; chúng hiện diện rất
phổ biến trong thực phẩm từ cả hai nguồn gốc thực vật và động vật, và
bạn không thể loại trừ chúng bằng cách không ăn đậu nành.
Phytoestrogen là một thuật ngữ chỉ cho nhiều hợp chất thực vật tự nhiên có cấu trúc hóa học tương tự như estrogen và anti-estrogen (Có
bằng chứng nghiên cứu cho thấy khi phytoestrogen được dùng trong những
trường hợp bên trong tế bào với độ cao thì phytoestrogen đóng vai trò
khống chế hoạt động của estrogen.) của loài động vật có vú, và có chức năng ngăn chặn tác động xấu của estrogen. Sự biến dưỡng (metabolism) và chức năng của phytoestrogen là vô cùng phức tạp, và nó thay đổi theo mỗi cá nhân.
Những lo ngại về đậu nành và căn bệnh ung thư bắt nguồn từ thực tế là các loại thực phẩm từ đậu nành có chứa phytoestrogen (nội tiết tố nữ thực vật, đặc biệt là, isoflavones)
với số lượng (tùy thuộc vào việc chuẩn bị) khác nhau, và những phản ứng
với các thụ thể estrogen (estrogen receptors). Có hai loại thụ thể
estrogen ở người: alpha và beta. Alpha được phân bố rộng khắp cơ thể,
trong khi phiên bản beta được bản địa hoá trong buồng trứng, tuyến tiền
liệt, phổi, và tinh hoàn. Trong khi isoflavones, giống như estrogen,
liên kết với cả thụ thể alpha và thụ thể beta, nhưng isoflavones không có tác dụng estrogen gây tăng trưởng của khối u. Trong thực tế, isoflavone đã chứng minh một lợi ích bảo vệ chống lại các bệnh ung thư liên hệ đến hormone. (Isoflavones - một dạng phytoestrogen trong đậu
nành có chức năng chống estrogen bằng cách ngăn cản không cho sản sinh
estrogen khi quá lượng estrogen cần thiết trong cơ thể, và không có tác
dụng gây phát triển khối u. Trong thực tế, isoflavone đã được chứng minh
có khả năng bảo vệ chống lại các bệnh ung thư do hormone gây nên, nhiều
thí nghiệm trong chuột cho thấy phytoestrogen có khả năng làm giảm sự
tăng trưởng của tế bào ung thư và điều này chứng tỏ rằng phytoestrogen
có thể có tác dụng tích cực trong việc ngăn cản những bệnh ung thư tùy
thuộc vào kích thích tố [*]
Lamartiniere CA, et al. Genistein suppresses mammary cancer in rats.
Carcinogenesis 1995; 53:187-192. [**] Lamartiniere CA, et al. Neonatal
genistein chemoprevents mammary cancer. Proc Soc Exp Biol Med 1995;
208:120-3.
Mối quan hệ nghịch đảo giữa việc tiêu thụ đậu nành và nguy cơ phát
triển ung thư vú tiền mãn kinh đã được chứng minh rõ ràng. Nói một cách
khác, càng dùng nhiều đậu nành thì càng có ít khả năng mắc bệnh ung thư vú. [3]
Bài Học từ Châu Á
Đậu nành là một nhu yếu phẩm quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực Á
Châu trong nhiều thế kỷ, và tỷ lệ của họ về bệnh động mạch vành, tăng
huyết áp, đột quỵ thiếu máu cục bộ, bệnh ung thư phụ thuộc vào hormone,
loãng xương, gãy xương hông sau mãn kinh, tiểu đường, và béo phì đều
thấp hơn đáng kể so với những gì được thấy ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, khi các vùng dân số bắt đầu tiêu thụ thực phẩm theo chế độ
ăn uống phương Tây, không ngạc nhiên, mô hình của họ về bệnh bắt đầu
xảy đến giống như chúng ta. Tôi nhớ lại thời điểm này khi chúng tôi còn
học ở trường đại học y khoa. Từ ngữ vegan (ăn thuần chay) và plant-based
(nguồn thực vật) chưa được dùng rộng rãi, nhưng đã có ít nhất sự công
nhận mối liên hệ giữa thay đổi địa lý trong chế độ ăn uống, và điều kiện
sức khỏe. Trong thời gian này, dự án bộ gen con người được hoàn thành.
Tôi đã thực hiện được sự kết nối mà không phụ thuộc vào khối lượng của
thông tin di truyền tất cả mọi người chia sẻ, làm thế nào chúng ta sống
và những gì chúng ta ăn sẽ có tác động rất lớn và trực tiếp đến sức khỏe
của chúng ta.
Để trích dẫn một ví dụ, cuộc nghiên cứu trăm tuổi Okinawa Okinawa Centenarian Study đã
phân tích sức khỏe và chế độ ăn uống của hơn 900 cụ sống lâu trên một
trăm tuổi ở đảo Okinawa, Nhật Bản. Những cụ trong lứa tuổi 70, 80 và 90
cũng được đánh giá. Bộ Y tế Nhật Bản đã cho đăng ký hộ khẩu gia đình
trên toàn bộ đất nước kể từ những năm 1870, và nó được cập nhật mỗi 5
năm.
Mật độ số người thọ trên 100 tuổi nhiều nhất thế giới là người Nhật
sống ở đảo Okinawa. Hoạt động cơ thể thường xuyên, BMI (chỉ số khối cơ
thể) thon gọn, và ăn nhiều trái cây, rau và đậu nành đều là một phần của
lối sống truyền thống Okinawa. Già hóa dân số của họ được hưởng cuộc
sống khỏe mạnh và bệnh ung thư (vú, buồng trứng, tuyến tiền liệt và ruột
kết) có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với những người ở Mỹ, và thậm chí cả
những người trên đất liền Nhật Bản. Mức độ của họ về sa sút trí tuệ,
loãng xương, và bệnh động mạch vành cũng rất là ấn tượng thấp. Để so
sánh, dựa trên nghiên cứu 10 năm kinh nghiệm lâm sàng của tôi, tôi có
thể làm chứng cho thực tế là dân số già của chúng tôi (Mỹ) có một tỷ lệ
cao của bệnh suy nhược, phụ thuộc vào dược phẩm, trầm cảm, khó khăn đi
lại và các hoạt động thể chất.
Huyền thoại của người đàn ông có nhũ hoa
"Moobs" là một trong những huyền thoại đậu nành được loan truyền mà
không có cơ sở thực tế trên thực tế khoa học. Tôi nhớ nỗi sợ hãi khi tôi
nuốt viên kẹo cao su hồi còn là một đứa trẻ - "vì nghe nói nó sẽ mất 7
năm để tiêu hóa!" Gynecomastia là một thuật ngữ y khoa chỉ cho bộ phận
vú phát triển ở nam giới. Hình thành cơ quan sinh dục của thai nhi và
phát triển tình dục thứ cấp chủ yếu là do hormone điều khiển. Nguyên
nhân làm người đàn ông phát triển nhũ hoa có khả năng bắt nguồn từ sự
nhầm lẫn giữa estrogen và phytoestrogen, nhưng, như đã giải thích trước
đây, phytoestrogen không phải là estrogen. Nếu thực sự đây là trường
hợp, sẽ có rất nhiều người đàn ông cần nịt vú (bras). (Các
tu sĩ Phật Giáo tu theo truyền thống Bắc Tông (Đại thừa) như Trung Hoa,
Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam có đến hàng trăm ngàn người ăn chay
trường suốt đời với đậu hủ và các thực phẩm khác chế biến từ đậu nành mà
không thấy có báo cáo nào về những nam tu sĩ có bộ nhũ hoa)
Trong thực tế, các nghiên cứu lâm sàng ở nam giới cho thấy isoflavone
không ảnh hưởng đến hàm lượng testosterone, hay mức lưu hành estrogen.
Ngay cả ở mức độ isoflavone cao hơn so với một tiêu thụ trong một chế độ
ăn giàu đậu nành ở nam giới châu Á điển hình đáng kể, isoflavone đã không được tìm thấy có tác dụng nữ tính hoá (feminizing). [4]
Huyền Thoại Đậu Nành và sự cuồng loạn của hiệp hội Weston A. Price Foundation
Huyền thoại đậu nành và sự cuồng loạn (hysteria) của Weston A. Price Foundation (WAPF) không thể tách rời nhau. Phần
lớn sự lo sợ xung quanh vấn đề tiêu thụ thực phẩm đậu nành là từ một
kết quả trực tiếp của thông tin sai lệch phổ biến không ngừng bởi các
chiến dịch chống lại kỹ nghệ sản xuất đậu nành tại Hoa Kỳ của tổ chức
WAPF, đăng ký như là một tổ chức phi lợi nhuận, với kinh phí
hoạt động hàng năm nhiều triệu đô la để vận động hành lang cho việc tiêu
thụ sữa tươi và thịt bò. Các thành viên của tổ chức này (thường là chủ
nông trại) đóng góp tài chính và được hưởng lợi từ sự vận động tuyên
truyền của WAPF. Một trong những chiến lược liên tục của WAPF là tạo ấn tượng cho những người ăn chay, đặc biệt là ăn các thực phẩm làm từ đậu nành là không tốt.
Công ty Soyfoods có doanh số bán hàng đã tăng từ 500 triệu USD trong
năm 1992 đến 5,2 tỷ US dollars trong năm 2011. Ngành công nghiệp đậu
nành được phát triển lớn rộng theo cấp số nhân, do đó đã đặt ra một mối
đe dọa tiềm ẩn đối với các sản phẩm thịt bò và các thực phẩm liên hệ như
trứng sữa bơ mà tổ chức WAPF đang cố gắng vận động rao bán trên thị
trường Hoa Kỳ. Họ đã tích cực xuất bản các bài báo tuyên truyền sự nguy
hiểm của việc tiêu thụ đậu nành.
Một ví dụ điển hình, có một bài viết gần đây trên trang web WAPF từ
thành viên hội đồng quản trị WAPF Kaayla Daniel, đã cố gắng giải thích
một bài viết trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ (JAMA) trong một cách mà có thể thúc đẩy chương trình nghị sự chống đậu nành của WAPF. Ngày 10 tháng 7 năm 2013, JAMA công bố “Ảnh hưởng của protein đậu nành đối với ung thư tuyến tiền liệt”. [5] Nghiên cứu được thực hiện tốt (randomized and double-blind - ngẫu nhiên và mù đôi),
nhằm mục đích phân tích việc ăn hay không ăn đậu nành sẽ có tác dụng
như thế nào đối với những bệnh nhân đang được điều trị ung thư tuyến
tiền liệt cao. Bác sĩ ung bướu đo PSA (kháng nguyên tuyến tiền liệt cụ thể)
trong máu ở những khoảng thời gian cụ thể để đánh giá phản ứng. Nó
không phải là đáng ngạc nhiên, là ở những bệnh nhân với mức tiêu thụ các
loại thực phẩm nhiều chất béo động vật và chất đạm, thuốc trừ sâu, chất
bảo quản và thuốc kháng sinh, và sau khi chẩn đoán ung thư tuyến tiến
liệt cho biết dấu hiệu sinh hóa không bị ảnh hưởng do ăn đậu nành. Tuy
nhiên, WAPF đã làm lệch dữ liệu (skewed data) bằng cách chọn lọc
lối diễn giải nghiên cứu của họ để hỗ trợ cho lời tuyên bố tiếp tục
chương trình nghị sự chống đậu nành của họ.
Điều đáng chú ý: Tiến sĩ Weston Price (1870-1948) người khai sanh và
đứng đầu tổ chức WAPF là một bác sĩ nha khoa, không phải là một bác sĩ y
khoa hoặc một chuyên gia dinh dưỡng. Ông đã nghiên cứu răng từ các nền
văn hóa nguyên thủy và xây dựng các khuyến nghị chế độ ăn uống đối với
xã hội hiện đại dựa trên những quan sát sâu răng.
Đậu nành và chức năng tuyến giáp
Tuyến giáp (thyroid) là một tuyến nội tiết của cơ thể, sản xuất ra
hormone. Tuyến giáp có chức năng thiết yếu trong việc biến dưỡng thực
phẩm (kiểm soát sự trao đổi các chất dinh dưỡng).
Có rất nhiều chất dinh dưỡng đòi hỏi cho việc sản xuất hormone tuyến
giáp, iốt được công nhận rộng rãi nhất. Mối quan hệ giữa tiêu thụ đậu
nành, thiếu iốt và bệnh bướu cổ (tuyến giáp mở rộng) được mô tả lần đầu
tiên vào năm 1960 trên tờ The New England Journal of Medicine. Trẻ sơ sinh tiêu thụ sữa đậu nành nonfortified phát triển bướu cổ, nhưng bản chất chính xác của mối quan hệ không rõ ràng. Kể từ đó, đã có nhiều nghiên cứu đã bác bỏ mối quan hệ nhân quả giữa đậu nành và độc tuyến giáp (thyroid toxicity). [6]
TPO (peroxidase tuyến giáp) là một enzyme nằm trong tuyến giáp xúc
tác các phản ứng cần thiết để xây dựng các hormone tuyến giáp. Các
nghiên cứu liên quan đến chuột, lợn và con người đã chứng minh giảm hoạt
động TPO khi ăn genistein và daidzein bị cô lập (các chất isoflavone
trong đậu nành có phản ứng mạnh mẽ nhất với TPO). Mặc dù một số hoạt
động TPO đã bị mất, không có tác động tiêu cực tổng thể về chức năng
tuyến giáp. Mức độ hormone tuyến giáp được đo trong máu của cả hai nhóm
thí nghiệm và kiểm soát là như nhau. Hơn nữa, con người (cũng như chuột)
chỉ thể hiện suy giáp nếu chế độ ăn đậu nành của họ iodine-cạn kiệt.
Xin vui lòng xem bảng cho Viện Y tế khuyến cáo.
Tâm Diệu biên dịch
(theo http://freefromharm.org/health-nutrition/vegan-doctor-addresses-soy-myths-and-misinformation/)
Dẫn chiếu của tác giả:
[1] Tucker, Katherine L. et al. “Simulation with Soy Replacement
Showed That Increased Soy Intake Could Contribute to Improved Nutrient
Intake Profiles in the U.S. Population.” The Journal of Nutrition, doi:
10.3945/jn.110.123901; 27 October 2010
[2] Morito, Keiko. et al. “Interaction of Phytoestrogens with
Estrogen Receptors Alpha and Beta.” Biological and Pharmaceutical
Bulletin, Vol. 24, Issue 4, pp. 351-356, April 2001
[3] Lee, Sang-Ah. et al. “Adolescent and Adult Soy Intake and Breast
Cancer Risk: Results from the Shanghai Women’s Health Study.” The
American Journal of Clinical Nutrition, Vol 89, Issue 6, pp. 1920-1926,
June 2009
[4] Messina, Mark. “Soybean isoflavone exposure does not have feminizing effects on men: a critical examination of the clinical evidence.” Fertility and Sterility, Vol. 93, Issue 7 , pp. 2095-2104, 1 May 2010
[5] Bosland, Maarten C. et al. “Effect of Soy Protein Isolate
Supplementation on Biochemical Recurrence of Prostate Cancer After
Radical Prostatectomy: A Randomized Trial.” The Journal of the American
Medical Association, Vol. 310, Issue 2, pp. 170-178, 10 July, 2013
[6] Chang, Hebron C. et al. “Dietary Genistein Inactivates Rat
Thyroid Peroxidase in Vivo without an Apparent Hypothyroid Effect.”
Toxicology and Applied Pharmacology, Vol 198, Issue 3, pp. 244-252, 1
November 2000
Dẫn chiếu thêm của người dịch:
1. Tỉ lệ dân bị ung
thư cao nhất thường tập trung trong các vùng dân số có mức tiêu thụ
chất béo và chất đạm động vật cao, và ít tiêu thụ chất sợi (fibre),
trong khi đó tỉ lệ ung thư thường thấp ở các vùng dân số có mức độ tiêu
thụ thịt ít nhưng có mức độ tiêu thụ rau củ qủa cao, nhất là các loại
rau củ quả có chứa phytoestrogen [01]
Parkin DM. Cancers of the breast, endometrium, and ovary: geographic
correlations. Eur J Clin Oncolo 1989; 25:1917-25. [02] Ross PD, et al.
International comparisons of mortality rates for cancer of the breast,
ovary, prostate and colon, and per capita food consumption. Cancer 1986;
58:2363-71.
2. Ở Nhật, những người nam ăn đậu phụ (5 lần một tuần) có tỉ lệ bị ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer) thấp hơn khoảng 50% so với những người nam ăn đậu phụ 1 lần hay ít hơn trong một tuần. [03]
Severson RK, et al. A prospective study of demographics, diet, and
prostate cancer among men of Japanese ancestry in Hawaii. Cancer Res
1989; 49:1857-60.
3. Trong một nghiên
cứu trên 265,000 người Nhật trong vòng 12 năm cho thấy những người ăn
miso (một loại thực phẩm biến chế từ đậu nành) hàng ngày có nguy cơ bị
ung thư dạ dày thấp hơn những người không dùng đậu nành. [04]
Haenszel W, et al. Stomach cancer among Japanese in Hawaii. J Natl
Cancer Inst 1972; 49:969-88. [05] Nagai M, et al. Relationship of diet
to the incidence of esophageal and stomach cancer in Japan. Nutr Cancer
1982; 3:257-68.
4. Hai nghiên cứu
khác ở Trung Quốc cho thấy phụ nữ dùng thực phẩm đậu nành ít (dưới 1 lần
/ tuần) có tỉ lệ bị ung thư phổi và ung thư vú cao gấp 2 đến 3.5 lần so
với các phụ nữ dùng hàng ngày. [06] Koo
LC, et al. Dietary habits and lung cancer risk among Chinese females in
Hong Kong who never smoked. Nutr Cancer 1988; 11:155-72. [07] Lee HP, et
al. Dietary effects on breast cancer risk in Singapore. Lancet 1991;
337:1197-200.
5. Trong một nghiên
cứu mà đối tượng là những người Hoa Kỳ gốc Trung Quốc, Nhật Bản, và Phi
Luật Tân, các nhà nghiên cứu ghi nhận một mối liên hệ nghịch chiều giữa
mức độ tiêu thụ đậu phụ và nguy cơ bệnh ung thư vú: phụ nữ dùng đậu phụ
nhiều có nguy cơ bị ung thứ vú thấp hơn phụ nữ không dùng hay dùng ít đậu khuôn [08]
Wu AH, et al. Tofu and risk of breast cancer. Cancer Epidemiol
Biomarkers Prev 1996; 5:901-6.. Một phát hiện tương tự cũng được ghi
nhận trong một nghiên cứu ở Singapore và Hawaii. [09] Lee HP, et al.
Dietary effect on breast cancer risk in Singapore. Lancet
1991;337:1197-2000. [10] Goodman MT, et al. Association of soy and fiber
consumption with the risk of endometrial cancer. Am J Epidemiol 1997;
146:294-306.
6. Vì những lợi ích
cho hệ tim mạch nên cơ quan FDA Hoa Kỳ khuyến cáo người dân nên tiêu thụ
25 gram protein đậu nành mỗi ngày, như một phần của một chế độ ăn uống
lành mạnh nhằm giúp hạ thấp chất béo bão hòa và cholesterol, có thể giúp
giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Bản để in PDF:
Những Thông Tin Sai Lạc Về Đậu Nành
No comments :
Post a Comment