Wednesday, January 7, 2015

Lạc chân xa, chợt nghe tiếng gọi gần…

Trong rất nhiều tập thơ của nhà thơ Luân Hoán, tôi vẫn thích nhất tập “Mời em lên ngựa.” Và giữa ba mươi mốt bài thơ, trong đó tôi thích nhất mấy khổ thơ gần, xa cảnh chùa. Tôi nói gần, xa, là có nguyên nhân:


    Bốn mươi năm trước, thời lên chín
    ở trọ gần bên một mái chùa
    ngày ngày ngắm Phật đâm quen mặt
    thân thiết như thân với nắng mưa.
    - Khắc thơ lên gốc Bồ Đề, tr.65.

Nói cho luôn, nhỏ – lớn, tôi có duyên ở chùa nhiều, nhưng thiếu căn tu! Cho nên đọc mấy khổ thơ như vậy, bất giác, cảm xúc trượt dài:

    Mười năm sau, bỗng dời chỗ trọ
    đêm đêm mõ vọng nhịp theo tim
    huyễn chuông lơ lững trong hồn mộng
    bóng Phật hồ như thấp thoáng chìm

    Ba mươi năm tiếp, lại dời chỗ,
    đày tuốt phàm thân biệt xứ người
    lâu lâu tạt vội vào chùa mới
    thầm ngắm Phật tìm đôi chút vui

    Bốn mươi chín tuổi chưa nhìn tận
    ưu thức động thơm vóc dáng Người
    ước chi thân thể mang tâm Phật
    đổi hết đời ta để biết cười.
    - tr.66

Cái thời ở chùa lâu, nhớ nhất vẫn là lúc ở với anh em “Ban Từ” trên hải đảo Pulau Bidong, Malaysia. Thân Phật như thân với nắng mưa. Nhưng mưa hải đảo không giống mưa đất liền. Giăng mắt xa, bốn bề trắng xóa. Trắng xóa mà vọng âm!

Nên đành, biết mình vướng lụy với đời, vụn tu mà nên nỗi. Đêm đêm mở thơ Luân Hoán ra đọc là để tự an ủi mình:

    Tôi ở phố đời lên viếng thăm
    buồn vui đầy đủ giấu trong lòng
    sao run chân quá khi quỳ gối
    làm lạc lời cầu nguyện thành tâm

    Phật chẳng trách gì khách hành hương
    chỉ dâng lên được chút bụi đường
    với tôi tay chắp trong im lặng
    chịu đựng giữ gìn riêng vết thương

    Tôi sắp hết đời, chưa đọc kinh
    mở kinh mà cứ ngắm tay mình
    lâng lâng lòng vụt theo chuông mõ
    rùng mình ngắm Phật, Phật làm thinh.
    - tr.67

Mà Phật, chừng ngắm tôi, chẳng biện biệt gì!

2.
Xa đảo, xa “Ban Từ” ngót đã hai mươi lăm năm, căn tính bỗng dưng một hôm lay động. Ngọn Phổ Đà Sơn sừng sững trong giấc mơ có tiếng gọi về thật nhẹ. Tôi nhớ lần đầu, qua đường dây điện thoại từ Canada, tiếng Thầy hiền từ, cốt cách thủy chung: “Triết đó hả con…”

Hồi ở đảo, Ban Từ mấy đứa cút côi, mấy lúc bịnh tật. Hạnh nguyện từ bi Thầy xuống bếp tự tay nấu cháo, thuốc thang và cạo gió cho anh em. Riết rồi, anh em gọi Thầy là “Mẹ Bổn Đạt.”

Hai mươi lăm năm, xoay lại, quay quắt. Không buồn không vui, chỉ man man chút niềm hoài cổ, phế tích điêu tàn ngôi chùa xưa trên đồi tôn giáo hương lạnh bao vốc tro Việt Nam nằm ngoài Việt Nam. Người tưởng sống sót, chẳng qua quên mình còn trôi giạt đây đó giữa trận đày ải.

3.

    Hết chỗ rong chơi, tôi đến chùa
    ngồi ngoài sân ngóng mõ chuông khua
    thứ hai nắng đẹp sao chùa vắng?
    trống hốc lòng tôi trước gió đùa

    Muốn đẩy cửa vào thăm viếng Phật
    mượn trầm hương tẩy nỗi sầu riêng
    nhớ ra thân thể không toàn vẹn
    sợ Phật đau lòng, đành đứng yên
    - tr.68

Đứng yên, hay đã lạc chân xa, chợt lại nghe tiếng gọi tha thiết gần: “Triết đó hả con…”

30 tháng Mười Hai, 2014
UYÊN NGUYÊN

No comments :

Post a Comment

BUDDHISM AND MAGAZINES/TODAY NEWS