Những
ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc
vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một
cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng
bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao
cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn
tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không
thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều
tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào
hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa,
biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
Từ đó, có một thành phần rời nước bằng
cách lên rừng, ra biển, tìm tự do, tìm lẽ sống cho mình và tương lai các
thế hệ sau. Cuộc lên đường này, như một nhà thơ ví von, “dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước.” (1)
Đó là huyền thoại xa xăm của giòng giống Lạc-Hồng với 50 con theo Cha
xuống biển, 50 con theo Mẹ lên núi. Nhưng cuộc chia tay ấy là sự sắp
xếp, thỏa thuận vui vẻ giữa hai vợ chồng thủy tổ để giữ cho sự hài hòa
giữa giống Rồng và giòng Tiên được kéo dài vô chung. Huyền thoại như thế
là chất keo sơn, là lý tưởng, là niềm tự hào của cả dân tộc mấy nghìn
năm qua. Còn ở đây, việc lên rừng, xuống biển của hàng triệu người, vốn
là anh chị em trong trăm họ Lạc-Việt, không phải là để mở nước, mà chính
là phải rời nước, xa quê, mở ra một chương mới lạ và khó tin của cuốn
sử bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước. Tiền nhân chúng ta trải bốn lần
Bắc-thuộc kéo dài cả một nghìn sáu trăm năm, rồi thời Pháp thuộc hơn nửa
thế kỷ, biết bao là đớn đau, thống khổ, tủi nhục… mà vẫn kiên trì bám
giữ lấy mảnh đất, miếng vườn của Tổ-tiên để lại; chưa từng nghĩ chuyện
rời bỏ quê hương. Nay, không phải giặc ngoại xâm hay thực dân đô hộ; mà
là anh em, đồng bào với nhau, hà cớ gì hàng triệu người đành đoạn lìa xa
nơi chôn nhau cắt rốn! Cho nên, đây không phải là huyền thoại hay giấc
mơ xa vời nào, mà là một đại bi kịch, đại thảm kịch của giống nòi—một
giai đoạn lịch sử bi đát, thương đau vô tiền khoáng hậu mà cả dân tộc
phải chứng thực trải nghiệm.
Nói là cả dân tộc, là vì nỗi đau thương bi đát ấy không phải chỉ ở nơi những người lặng lẽ ôm “nỗi buồn di tản,”
vượt biên đường rừng, đường biển (với số người chết, mất tích lên đến
hàng trăm ngàn), hay những người công khai rời nước bằng mọi cách (di
dân, đoàn tụ, hoằng pháp, giáo dục, du học…); mà ngay cả đại bộ phận
những người ở lại, cũng phải cùng gánh chịu cái di họa khủng khiếp của
bão lửa.
Bão lửa không phải chỉ mới bắt đầu từ
bốn mươi năm trước, mà xa hơn, kể từ khi người ta bắt đầu khước từ những
huyền thoại và giấc mơ đẹp của Tổ-tiên để rước vào một thứ hoang tưởng
độc hại sinh xuất từ cơn điên của những kẻ bệnh hoạn, tham lam, ích kỷ.
Hoang tưởng ấy tàn phá, triệt hủy, biến dạng tất cả những tính chất và
tình tự cao đẹp của dân tộc; kết tụ thành một tâm bão, thổi bùng lên
ngọn lửa tham tàn, thù hận, cuồng si, cháy suốt gần một thế kỷ trên quê
hương yêu dấu.
Lòng nhân ái và tinh thần hòa giải, vốn
là di sản của tiền nhân bao đời nhằm giữ nước yên dân, cũng đã bị thiêu
rụi, để mặc cho sự nẩy nở sinh sôi tràn lan, không gì ngăn trở của tính
vị kỷ, tàn ác, vô tâm… đẩy cả giang sơn gấm vóc vào thảm trạng băng hoại
đạo đức, phá sản văn hóa như hiện nay.
Để giữ nước, yên dân, người xưa đã nêu
gương gì mà con cháu thời nay không học được? — Đơn giản là phải biết
thương yêu nhau; lấy điều nhân nghĩa mà đối xử với nhau. Anh em không
thương, lại đem thù oán đối đãi nhau thì gia đình chia ly, lòng người
phân tán, làm sao lạc nghiệp an cư, làm sao giữ được nước khi giặc ngoài
lăm le thôn tính!
Bốn mươi năm nhìn lại, chỉ thấy hoang
tàn đổ nát ẩn bên dưới và đàng sau những mị ảnh hào nhoáng cao sang. Bão
lửa đã ngưng thổi nhưng đâu đó vẫn còn âm ỉ những than hồng, tiếp tục
xoi mòn, thiêu cháy lòng vị tha, niềm tin yêu, và cả niềm hy vọng tuổi
trẻ. Tên gọi và hình dạng của bão lửa có thể thay đổi theo thời gian,
nhưng bản chất vẫn là một thứ hoang tưởng được hệ thống hóa, biến thành
một cỗ máy bám trụ chân rết trên mảnh đất quê hương. Gần một thế kỷ qua,
nhiều thế hệ tiếp nối nhau, cố gắng phá đổ hoặc thay đổi nó bằng đánh
phạt, hoặc bằng tình thương, bằng nhân nghĩa như tiền nhân đã làm, nhưng
không thành công, chưa thành công.
Thời gian không ưu đãi cho con người, mà
có vẻ hào phóng ưu tiên cho máy móc và hệ thống. Thế rồi, những người
thuộc các thế hệ chứng nhân của lịch sử lần lượt ngã xuống mà cỗ máy vẫn
còn trơ lì nằm đó. Những người ấy tin tưởng nơi lòng thương, tin tưởng
nơi điều gọi là tình tự dân tộc, và đã kiên trì theo đuổi con đường hòa
hợp, nhân ái, khoan dung, tức là “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo,” (2) hoặc dùng “tình thương dập tắt hận thù.”
(3) Nhưng, có lẽ họ quên rằng lòng thương của con người có thể làm thay
đổi, chuyển hóa được lòng người, chứ không thể tức thời chuyển hóa được
cỗ máy vô tri. Lấy lòng thương để cảm hóa con người đã là phương lược
dài hạn, đòi hỏi sự bền chí, kiên gan; huống gì đối với một cỗ máy, tất
nhiên cần nhiều thời gian và nhẫn nại hơn.
Bảy mươi lăm năm, hay bốn mươi năm, chưa
phải là dài so với các triều đại thịnh trị, an bình trong lịch sử,
nhưng cũng đủ làm mòn mỏi những tấm lòng, những ước vọng khôn nguôi cho
một quê hương an vui, thái hòa; và cũng quá thừa cho nhiều thế hệ non
trẻ lớn lên trong cái khung ảo tưởng, chủ động hoặc thụ động bịt mắt
bưng tai, cuồng nhiệt tung hô những khẩu hiệu sáo rỗng, xì xụp tôn thờ
những thần tượng hóa thạch và cỗ máy vô tri từng nghiền nát bao thế hệ
quá khứ.
Tưởng niệm bao người đã nằm xuống và xót
đau cho bao người đang còn gánh chịu nỗi nhục nhằn thống khổ triền miên
trên quê hương, người đi trước chỉ muốn nhắn gửi đôi điều với những
người tuổi trẻ đi sau:
Đừng cho rằng lòng thương dẫn đến thụ
động, mềm yếu; ngược lại là khác. Từ thời nhà Đinh cho đến Hậu Lê, trải
qua năm trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử nước ta, những chiến thắng
lẫy lừng khiến giặc ngoại xâm phải kinh hồn bạt vía đều diễn ra trong
các triều đại mà nhà vua và quan quân tướng lãnh chịu ảnh hưởng tinh
thần từ bi, khoan dung của Phật giáo. Lấy từ bi làm động lực xử thế, đem
khoan dung làm phương thức lợi tha. Đó là tâm thuật hộ quốc an dân của
người xưa.
Nước sẽ dập tắt lửa. Lòng thương sẽ cảm
hóa hận thù. Dù những người đi trước đã trải cả tâm tư, nước mắt và ngay
cả sinh mệnh cho một tương lai xán lạn của quê hương mà không thành
công, các bạn trẻ cũng không nên nản lòng, thoái chí. Cái gì không thể
bắt rễ sâu vào lòng đất mẹ, cái đó sẽ không tồn tại lâu dài. Di sản của
tiền nhân thì có gốc rễ; đã được un đúc, thấm nhuần với bề dày văn hiến
và chiều dài lịch sử, trở thành bản sắc văn hóa, là tự tính của dân tộc.
Nghìn năm qua và nghìn năm tới, vẫn như thế, là lòng nhân ái, là tính
bao dung. Chỉ có di sản ấy mới là vốn liếng để mở nước, giữ nước. Thế
nên, các bạn cũng không nên tuyệt vọng trước sự vô cảm lạnh lùng của kẻ
hiểm ác. Chính họ, lớn lên từ đất này, gốc rễ này, cũng được thừa hưởng
và mang trong vô thức, trong giòng máu của mình, phúc ấm thiện lành của
Tổ-tiên. Lòng thương yêu và đức khoan dung của bạn sẽ khơi dậy di sản bị
bỏ quên ở nơi họ. Triệu bàn tay không thể đồng lúc cất nổi một cỗ máy,
nhưng triệu con tim cùng chung một nhịp, có thể làm chuyển động xã tắc
sơn hà.
Kiên trì gìn giữ và phát huy di sản của
tiền nhân, rồi các bạn sẽ thấy, và sẽ tin rằng, bão lửa ngày tàn xuân
năm ấy, một ngày nào đó cũng sẽ lụi tàn trước mùa xuân mới.
California, những ngày tàn Xuân, tháng Tư, 2015
Vĩnh Hảo
(1) Ví von với huyền thoại Âu Cơ là ý của nhà thơ Viên Linh trong thi tập “Thủy Mộ Quan,” được nhà thơ Tuệ Sỹ nhắc đến trong bài “Thuyền Ngược Bến Không.”
(2) “Bình Ngô Đại Cáo,” Nguyễn Trãi
(3) Kinh Pháp Cú, Kệ số 5 (Dhammapada, Verse 5).
No comments :
Post a Comment