Trước khi vào đề tài CÂY GẬY THIỀN, tôi xin hỏi quý vị: “Có ai biết
con vật gì mà buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa đi hai chân và buổi chiều
đi ba chân?”
Đó chính là con người. Lúc còn nhỏ, khi mới biết bò, biết lật, biết
lẫy thì chúng ta bò bằng bốn chân; khi lớn lên hai ba tuổi thì chúng ta
bắt đầu đi hai chân. Còn khi về già, thì chúng ta lại phải dùng thêm cây
gậy là chân thứ ba để nó giúp cho chúng ta đi vững vàng. Lúc ấy, cây
gậy trở nên rất quan trọng!
Dưới thời đức Phật, có một ông trưởng giả, rất giàu. Hai vợ chồng
ông sinh được bốn người con. Khi con cái trưởng thành, ông bà lo cho
chúng yên bề gia thất.
Sau người vợ qua đời. Những người con họp nhau lại để bàn tính vì
họ lo sợ người cha cảm thấy cô đơn và sẽ lấy vợ khác, gia tài của cha sẽ
không còn thuộc về mình nữa. Rồi bốn người con đồng lòng đến thưa với
cha là nên chia hết số tài sản còn lại cho họ, họ sẽ thay phiên nhau để
phụng sự ông. Người cha nghe bùi tai nên đồng ý. Những người con chăm
sóc ông chu đáo được một thời gian. Sau đó, chúng lại tỵ nạnh với nhau
và đẩy cha già từ nhà người này sang người khác. Cuối cùng, vì tự ái,
ông không thèm ở với đứa nào và bỏ nhà ra đi.
Ông tìm cho mình một cây gậy và đi khất thực. Trong lúc tủi thân
buồn khổ, ông sực nhớ đến sa-môn Cồ-đàm là người thường hay an ủi những
người già cả, cô đơn, ông bèn tìm đến đức Phật để xin Ngài giúp đỡ. Đến
nơi, ông kể lể sự tình, đức Phật nghe xong bèn đọc cho ông nghe một bài
kệ, dặn ông rằng khi nào có dịp Bà-la-môn hội họp trong làng, ông hãy
đem bài kệ này ra đọc.
Một hôm, đúng dịp làng hội họp, sau khi mọi người bàn luận xong, ông mới đứng lên kể trường hợp của mình, rồi đọc bài kệ:
Chúng là những đứa con,Khi sanh ra tôi mừng, tôi hy vọng.
Vậy mà khi nghe lời vợ xúi giục,
Chúng đuổi tôi như đuổi một con chó.
Chúng gọi tôi cha thân yêu,
Thật ác độc và vô ích.
Quỷ đội lốt con trai,
Chúng bỏ tôi khi tuổi già như bỏ đói con ngựa già vô dụng.
Làm cha một lũ ngu phải đi xin ăn lang thang từng nhà. 8 Hạnh Huệ
Một cây gậy còn tốt hơn lũ con bất hiếu.
Cây gậy còn đuổi được bò rừng, chó dữ.
Gậy dẫn đường trong đêm, đỡ chân qua vũng nước bùn lầy...
Vì luật làng xử tội nặng những đứa con bất hiếu, nên những người
con của ông nghe xong tái mặt, vội đến xin ông tha thứ lỗi lầm. Từ đó,
bốn người con ra sức chăm nom cha già. Phần ông, ông rất biết ơn đức
Phật đã dạy cho mình bài kệ này…
Trong Vô Môn Quan, tắc công án thứ 44, Ba Tiêu Huệ Thanh nói:
“Ông có một cây gậy thì tôi sẽ cho ông thêm một cây gậy. Còn nếu ông
không có cây gậy nào thì tôi sẽ lấy cây gậy của ông.” Và thiền sư Huệ
Khai đã bình rằng:
Phù quá đoạn kiều thủy,
Bạn quy vô nguyệt thôn.
Bạn quy vô nguyệt thôn.
Để đỡ qua khe khi cầu gãy,
Làm bạn về xóm lúc không trăng.
Làm bạn về xóm lúc không trăng.
Nhưng nếu gọi đó là cây gậy thì vào địa ngục nhanh như tên bắn..
Cây gậy được dùng trong những trường hợp cầu gãy, đêm tối... Nhưng
tại sao lại nói nếu gọi đó là cây gậy thì vào địa ngục nhanh như tên
bắn? Ý nghĩa này chỉ có trong cây gậy của nhà Thiền.
Trong nhà Thiền, các thiền sư sử dụng cây gậy rất linh hoạt.
Cây gậy trí tuệ
Mục đích của Thiền tông không gì khác hơn là nhận rõ và sống được với
tâm của mình. Tâm không bao giờ rời xa mình nhưng chúng ta lại ít có cơ
hội nhìn nó cho kỹ, chỉ lo chạy theo cái dụng của tâm và từ đó mới sinh
ra phiền não. Nhờ có tâm nên mình mới nhìn thấy người, rồi khởi phân
biệt người này đẹp, người kia xấu, người nọ giàu, người đó nghèo… Từ đó
mới sinh tiếp vô số vọng tưởng điên đảo: thương, giận, ghét… Như vậy,
điên đảo bắt nguồn từ tư tưởng, nếu không có tư tưởng thì không có điên
đảo và tu thiền là để nhận rõ và chấm dứt những điên đảo này.
Trong Tây Du Ký, Tam Tạng đi thỉnh kinh lúc đầu mới độ được Tôn
Ngộ Không. Trên đường đi, hai thầy trò gặp sáu tên cướp. Tam Tạng rất lo
sợ. Ngộ Không cầm cây thiết bảng – cây gậy sắt - đến hỏi tên mấy đứa
này. Chúng tự xưng tên là: Thấy thì mừng, Nghe thì giận, Ngửi thì thích,
Nếm thì khoái, Thân thì lo, Ý thì nghĩ. Té ra, sáu tên giặc này tượng
trưng cho sáu thức hay còn gọi là lục tình. Sau khi nghe xong tên của
bọn chúng, Tôn Hành Giả cười và bảo rằng:
- Tưởng gì, chúng mày không biết những người đi tu là chủ nhân ông của chúng mày hay sao?
Sáu thức này từ tâm mà ra. Như vậy Tâm chính là cha, là chủ nhân
ông của sáu thức. Cho nên khi bọn cướp đòi chia của, thì Tôn Hành Giả đã
trả lời:
- Tụi bây phải mang của ra đây chia lại cho ta.
Theo kinh A-hàm, Phật dạy trong tâm chúng ta có mười tên giặc
(Thập triền, Thập sử), nó ăn cướp gia bảo của mình mang đi, nhưng thực
chất nó cũng chính là người trong nhà. Khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc
với sáu trần, tâm khởi phân biệt thành sáu thức. Nếu không có sáu thức
làm nội ứng thì sáu trần bên ngoài không thể tác động đến chúng ta.
Chẳng hạn như mình không có tâm thích đồng hồ, bông hồng... thì cảnh bên
ngoài có đến, mình cũng dửng dưng.
Nghe Tôn Hành Giả nói như vậy, thì sáu tên ăn cướp kia không chịu,
bèn xông vào đánh Tôn Hành Giả. Tôn Hành Giả bèn lấy gậy đập cho bọn
chúng chết hết. Tam Tạng thấy vậy thất kinh không chịu nổi, đòi đuổi Tôn
Hành Giả đi vì cho rằng giết hết như vậy là không có lòng từ bi. Về
sau, Phật Quan Âm bèn cho Tam Tạng chiếc vòng Kim cô niềng đầu Hành Giả
để cho bớt “hăng”.
Thật lạ cho ông thầy Tam Tạng này! Nhưng mình sẽ thông cảm ngay khi
biết Tam Tạng này không phải là cao tăng bên nước Đại Đường đi thỉnh
kinh, mà chính là mỗi người chúng ta mang ba kho tham, sân, si muốn trở
về với bản tâm thanh tịnh. Tôn Hành Giả tượng trưng ý thức, sau khi được
Phật Quan Âm độ thì ý thức này trở thành trí tuệ. Mà trí tuệ là dứt
khoát, thấy là phải dẹp. Nhưng con người với đủ tham sân si, làm sao một
lúc bỏ đi những thứ xưa nay mình coi trọng? Buông hết thì mình còn gì?
Phải từ từ thêm “giới” (Trư Bát Giới) và “định” (Sa Tăng) kèm bên. Và sự
chuyển hóa tham sân si thành giới định huệ này, thật phải trầy da tróc
vảy. Trí tuệ thường đi mau hơn cái thân do tập khí, nghiệp thức của
mình. Cũng như chúng ta học hiểu hết đạo lý, biết cái gì phải, cái gì
trái, nhưng có những cái mình biết không phải mà mình không bỏ được. Ví
dụ như ngày rằm chúng ta ăn chay. Nhưng nếu lỡ có đám tiệc mời mình
trùng vào ngày đó, mình thường không dứt khoát là hôm nay tôi ăn chay,
tôi không dự, mà thường phải ngã mặn vì những lý do bất khả kháng, rồi
mai ăn chay lại bù (!). Trí của chúng ta đi rất mau. Cái trí có thể đi
tới cõi Phật một ngày năm sáu chục lần cũng được. Còn thân chúng ta thì
rất chậm chạp. Có thể là đi từ trẻ đến già, thậm chí có khi chết rồi
sanh trở lại nữa nhưng vẫn cứ ì ạch. Cho nên, nếu chúng ta có được cái
dứt khoát, bất cứ tư tưởng nào vừa khởi lên là mình dẹp liền thì sẽ
thành đạo rất mau.
Cây gậy của Tôn Hành Giả còn đập chết Bạch Cốt phu nhân. Bởi vì con
mắt của trí tuệ nhìn sự vật không giống mình. Chúng ta nhìn thấy người
đẹp, người trẻ, người già, nam, nữ... Nhưng dưới mắt trí tuệ thì tất cả
chỉ là một bộ xương khô. Chúng ta phải nhìn cho thật sâu vào trong bản
thể của tất cả mọi sự, biết được tính chất vô thường rỗng không của
chúng, thì mọi ham muốn sẽ tiêu tan, nếu không mình sẽ bị nhiều thứ vây
khốn. Chúng ta cần phải có cây gậy trí tuệ của Ngộ Không để thấy rõ
những cái duyên hợp giả tạm thì dù chúng có hấp dẫn đến đâu cũng nên cho
một gậy. Tâm rất quý, là cái thân thiết nhất với mình, sống được với
bản tâm thì an lạc, hạnh phúc. Cho nên chúng ta cần bỏ hết tất cả để
quay trở về với bản tâm của mình. Đây là một điều hết sức quan trọng.
Bản tâm của chúng ta lại là “bản lai vô nhất vật” như Lục tổ đã nói
trong bài kệ nổi tiếng của Ngài. Không có một vật gì ở trong tâm! Để vật
gì vào tâm là chúng ta đánh mất sự trong sáng, là khuấy động phiền não,
là điên đảo. Vậy tại sao mình lại để cho những thứ không có gì bền
vững, có đó rồi mất đó như vậy làm cho mình điên đảo? Tóm lại, hãy buông
hết đi! Mạnh hơn tí nữa, có thể bảo: Giết thật sạch! Chỉ có như vậy
chúng ta mới sống hằng ngày trên cõi đời này rất vui, không bị rơi vào
“thức tình” (tâm phân biệt). Và khi nhận ra được tâm phân biệt là khởi
nguồn của mọi sự rắc rối thì những lúc chúng ta ngồi thiền, cái gì khởi
lên là mình dẹp liền bằng cách nhìn nó cho kỹ để nó tự tan. Vì bản chất
của vọng tưởng là không, nên mình không cần phải đuổi dẹp nó, nhưng cần
phải biết để khỏi phiền não nữa. Kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ bất khả
đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc”. Hiện tại không
có vì mỗi tích tắc qua đều là quá khứ rồi. Mà một người sống động thì
không phải sống với quá khứ. Quá khứ là những cái chết rồi. Nếu chúng ta
cứ bám vào những tư tưởng, ngôn ngữ, hình bóng... của quá khứ tức là
mình đang sống với những xác chết, trong khi cuộc đời cứ đổi mới hoài
hoài. Cho nên tu tức là nhìn thấy tất cả là như vậy đó. Tất cả đều trôi
qua, không có gì để phiền não hết. Trần Thái Tông có hai câu thơ:
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm.
Bách niên tâm ngữ tâm.
Trăm năm lòng tự nhủ lòng
Sự đời muôn việc như dòng nước xuôi.
Sự đời muôn việc như dòng nước xuôi.
Chúng ta cần phải tự nhắc nhở mình, luôn nhớ là trên cõi đời này mọi
việc đều như huyễn, như mộng. Tất cả rồi sẽ trôi qua, trôi qua... Và nếu
như chúng ta luôn biết sống với cái tâm mới mẻ từng giây phút thì mình
sẽ không bao giờ già, dù đầu mình tóc có bạc, người mình có thể chống
gậy nhưng tâm chúng ta vẫn rất là hồn nhiên, trẻ thơ – một cái tâm bất
tử. Chúng ta phải để tâm làm chủ mọi sự, đừng đi vào ngõ ngách của quá
khứ, hay mơ màng tới tương lai mà chỉ sống với hiện tại như nó đang là.
Vì muốn dứt hết các vọng tưởng điên đảo cho nên các thiền sư mới dùng
cây gậy để hễ ai đến hỏi những điều lôi thôi là các ngài phang cho một
gậy, bặt hết vọng tưởng. Các ngài đã “xài” cây gậy với nhiều dụng ý.
Cây gậy chặt đứt vọng tưởng
* Đức Sơn đưa gậy lên và nói:
- Hôm nay không có đáp thoại, ai nói được cho hai mươi gậy. Ai không nói được cũng cho hai mươi gậy.
Có một ông tăng mới ra đảnh lễ, chưa nói gì đã bị Ngài đập cho một gậy. Vị tăng đó thưa:
- Sao con chưa nói gì hết mà Hòa thượng đánh con?
Đức Sơn trả lời:
- Đợi ông nói thì đâu có kịp.
Như vậy, Ngài đánh là để chặn cho đừng nói, để mình nhận ra được cái
trước khi mở miệng, bởi vì nói là đã rơi vào thức tình rồi.
* Khâm Sơn Văn Thúy, Tuyết Phong, Nham Đầu cùng học với ngài Đức Sơn.
Tuyết Phong, Nham Đầu đã ngộ đạo, chỉ còn Văn Thúy nhiều lần cố gắng
nhưng vẫn không ngộ được. Một hôm, Sư lên hỏi ngài Đức Sơn:
- Bạch thầy, ngài Đạo Ngô, Long Đàm cũng nói như vậy, không biết Hòa thượng nói sao?
Ngài Đức Sơn bảo:
- Ngài Đạo Ngô, Long Đàm nói sao, ông nói ta nghe thử xem.
Văn Thúy vừa mở miệng định nói thì bị ngài Đức Sơn đánh cho một gậy thiệt đau. Văn Thúy lễ bái xuống than với hai vị kia rằng:
- Hòa thượng đánh đau quá!
Tuyết Phong bèn trả lời liền:
- Nếu ông nói như vậy thì ông không được bảo là mình kế thừa Hòa
thượng. Thầy đánh ông là cố để cho ông rơi rụng mọi vọng tình mà ông lại
còn nói là đánh đau hay không đau.
Cây gậy là cảnh
Trở lại với câu nói của ngài Ba Tiêu ở trên: “Ai có cây gậy, tôi cho
người đó cây gậy. Ai không có, tôi lấy cây gậy người đó”. Tại sao Ngài
lại nói như vậy?
Các thiền sư khi đưa gậy lên là cốt nhắc nhở mọi người nhớ tới “chủ nhân ông”, gọi là kiến sắc minh tâm. Cây gậy trong tay các thiền sư biến hóa vô lượng, vô biên.
Cây gậy đó có thể là một ngón tay.
Như Hòa thượng Câu Chi mỗi lần ai đến hỏi đạo, Ngài chỉ giơ một ngón
tay lên và tuyên bố rằng: “Từ khi có ngón tay của Hòa thượng Thiên Long
rồi, xài hoài không hết”.
Giảng đạo không cần phải nói ra rả, các thiền sư ngày xưa chỉ cần đưa gậy lên.
Cây gậy có thể trở thành đóa hoa sen trong tay đức Phật, cũng có thể
trở thành cây quạt, đôi dép, chiếc xe hay một cô gái đẹp... bởi vì nó
tượng trưng cho cảnh. Mà cảnh thì có thiên hình vạn trạng. Mỗi người sẽ
gặp một cảnh riêng và sẽ bị chi phối một cách khác nhau. Nhưng nếu mình
biết tất cả đều là cảnh thì mọi sự cũng chỉ là một cây gậy mà thôi. Sống
được với bản tâm của mình, nghĩa là biết chủ nhân, chúng ta sẽ có cái
nhìn bao dung để thông cảm nhưng không đồng hóa với người khác, hoặc bắt
họ giống như mình. Chúng ta sẽ nhìn mọi sự như thị, tức là nhân như thế
này, duyên như thế này thì quả như thế đó.
Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ cảm nhận phần nào các công án trong nhà thiền.
* Ngài Vân Môn đưa cây gậy lên và nói:
- Toàn thể núi sông, thế giới đều nằm ở trong cây gậy này, tha cho sống hoặc là bắt chết.
Một vị tăng liền hỏi:
- Thế nào là bắt chết?
Ngài trả lời:
- Nó đang chết.
Vị tăng hỏi thêm:
- Thế nào là cho sống?
Ngài trả lời:
- Ông lên làm chủ.
Hỏi:
- Khi không giết chết, không cho sống thì sao?
Trả lời:
- Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.
* Một hôm có người đến hỏi Hòa thượng Càn Phong:
- Mười phương chư Phật chỉ có một cửa Niết bàn. Như vậy, chỗ nào là đầu đường?
Hòa thượng Càn Phong bèn cầm cây gậy vạch lên đất, nói:
- Đây là đầu đường!
Cây gậy thành tiếng
* Ngài Động Sơn Thủ Sơ, một hôm đi tới ngài Vân Môn để hỏi đạo. Ngài Vân Môn hỏi rằng:
- Ông từ đâu tới?
Thủ Sơ:
- Dạ, con từ Tra Độ tới.
Vân Môn:
- Vừa rồi ông nhập hạ ở đâu?
Thủ Sơ:
- Dạ, chùa Báo Từ ở Hồ Nam.
Vân Môn:
- Rời đó bao lâu?
Thủ Sơ:
- Dạ, ngày 25 tháng 8
Vân Môn:
- Tha cho ông ba mươi gậy.
Ngài Thủ Sơ rất ngạc nhiên, đảnh lễ lui ra mà không biết vì sao mình
lại xém bị đòn. Cả đêm hôm đó, Ngài trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm
sau, Ngài lật đật đến hỏi Hòa thượng:
- Hôm qua, nhờ ơn Hòa thượng tha cho con ba mươi gậy. Nhưng con không biết lỗi con ở chỗ nào?
Ngài Vân Môn trả lời:
- Cái đồ túi cơm, cứ như vậy mà đi hết Giang Tây đến Hồ Nam.
Về sau, ngài Huệ Nam ở Hoàng Long hỏi đạo ngài Từ Minh. Ban đầu, ngài
Từ Minh nể ngài Huệ Nam vì Ngài rất giỏi, đã từng thuyết pháp rồi, nên
cho phép ngài Huệ Nam ngồi hỏi chuyện, không cần làm lễ thầy trò. Nhưng
ngài Huệ Nam cứ hết lòng thưa thỉnh, khẩn cầu được làm lễ. Lúc bấy giờ
ngài Từ Minh mới hỏi:
- Ngày xưa, Động Sơn được tha ba mươi gậy là ông đó đáng ăn gậy hay không đáng ăn gậy?
Ngài Huệ Nam trả lời rằng:
- Đáng ăn gậy.
Ngài Từ Minh bèn nghiêm sắc mặt và nói:
- Như vậy từ sáng đến tối, ngài nghe chim hót, quạ kêu... đều đáng ăn gậy hay sao?
* Ngài Thái Nguyên Phù vốn là một thiền sư rất đặc biệt nhưng Ngài
không độ chúng cũng không ở chùa. Gần cuối đời, có một ông quan thỉnh
Ngài về để hộ cho Ngài tu. Một hôm, Ngài nói với viên quan lời cám ơn
bấy lâu đã hộ cho Ngài tu, nay sắp đi, nên Ngài xin giảng bộ kinh
Niết-bàn để đáp ơn ông. Viên quan nghe nói liền dọn bàn để cho Ngài
thuyết pháp. Ngài bước lên và nói:
- Tôi nghe như vầy (đập gậy xuống bàn), nhất thời Phật tại.
Nghe tiếng gậy thấy Phật hiện, tuyệt chưa!
* Ở trong nhà Thiền, về sau, hòa thượng Tổ Quyên còn phân tích thêm
là cây gậy khi các thiền sư sử dụng thường có tám trường hợp:
- Gậy thưởng
- Gậy phạt
- Gậy tha
- Gậy đoạt
- Gậy ngu si
- Gậy hàng ma
- Gậy tảo tích
- Gậy vô tình
- Gậy phạt
- Gậy tha
- Gậy đoạt
- Gậy ngu si
- Gậy hàng ma
- Gậy tảo tích
- Gậy vô tình
Thông thường, cây gậy có công dụng “tảo tích”, nghĩa là “quét sạch
dấu vết” để không rơi vào tình phàm mà cũng dứt luôn thánh giải để trở
về với cái tâm bình thường của mình không có chứng đắc gì cả.
Còn việc dùng gậy để đập thì ý nghĩa của “đập” tức là muốn cho toàn
thân của chúng ta rơi rụng hết mọi chấp trước, để hiển lộ bản tâm. Nếu
ai lanh lợi thì nơi cây gậy chuyển thân. Còn ai độn căn (đánh mà không
hiểu) thì bị điểm trán. Cũng giống như tích truyền cá chép đến mùa phải
vượt vũ môn. Con nào vượt qua không nổi bị rơi lại thì gọi là điểm trán.
* Lâm Tế hỏi Lạc Phổ:
- Một người dùng hèo mà đánh. Còn một người hét thì ông thấy người nào gần đạo hơn?
Lạc Phổ trả lời:
- Không ai gần hết.
Bởi vì “gậy” và “hét” không đưa tới đạo mà phải nương nơi “gậy” và “hét” để nhận ra thì mới gần đạo được.
Lâm Tế hỏi tiếp:
- Thế nào mới gần?
Lạc Phổ liền hét lên một tiếng. Lâm Tế liền đập luôn Lạc Phổ một gậy.
Như trên đã nói, nhà Thiền thường nói kiến sắc minh tâm (nương nơi sắc để mà thấy tâm). Các hành giả hỏi các thiền sư:
- Xin nói thẳng, đừng có chỉ Đông, vẽ Tây.
Các thiền sư vẫn đưa gậy lên.
* Ngài Vân Môn đưa gậy lên, bảo:
- Cây gậy này, phàm phu gọi nó là gậy. Nhị thừa phân tích nó thành
không. Duyên giác thì nói nó như huyễn. Bồ tát thì nói là đương thể tức
không. Thiền sư thì cây gậy nói là cây gậy mà không được đụng đến.
Phàm phu thì thấy gì nói nấy. Thấy hoa nói hoa, thấy tượng nói tượng.
Còn Nhị thừa hay Tiểu thừa thì phân tích tất cả các vật tuy có nhưng vô
thường, nghĩa là sẽ bị hoại diệt thành không. Ví dụ như cái bông hồng
đang tươi thắm nhưng sẽ héo úa tàn tạ, không còn là bông hồng nữa. Duyên
giác thì nói như huyễn, như hóa tức là nó có đó nhưng không thật, do
duyên hợp mà thành. Cuộc đời chỉ như giấc mộng. Bồ tát thì nói đương thể
tức không, các ngài không phân tích, không quán chiếu nhưng ngay đây
biết đó là không. Thiền sư thì lại khác, cây gậy thì nói là cây gậy mà không được đụng. Không nói có, không phân tích, không nói không.
Vì vượt khỏi quán chiếu. Còn quán chiếu là còn nhằm trên vật mà nói.
Thiền sư không động đến gậy, tức là không động đến cảnh mà chỉ nhận tâm
của mình.
Trong Tứ Liệu Giản của Lâm Tế có nói, “Tâm cảnh không đến
nhau.” Không đến nhau, nghĩa là không phải không thấy cảnh mà cảnh không
làm tâm khởi lên bất cứ điều gì. Ví dụ như đức Phật khi thành Phật rồi,
người ta gọi con trâu, đức Phật cũng gọi là con trâu chứ không thể gọi
con trâu là con chó được. Chỉ khác là người ta chấp, còn đức Phật thì
không chấp. Thiền sư cũng là những người sống trong thế gian nhưng tâm
khác xa. Những cái khiến người ta đau khổ, thì thiền sư không đau khổ.
Còn những cái khiến người ta vui thiền sư không vui..., các ngài luôn
giữ một tâm bình an “nhất niệm vạn niên”.
* Ông Bàng Uẩn cũng có bài kệ:
Một bầy sáu tên giặc
Đời đời lừa giết người
Nay ta rõ bây rồi
Chẳng cùng bây gần gũi
Nếu bây chẳng phục ta
Đến đâu ta cũng nói
Dạy người biết hết bây
Nếu bây biết phục ta
Ta bèn chẳng phân biệt
Cùng bây ở một chỗ
Đồng chứng vô sanh diệt.
Đời đời lừa giết người
Nay ta rõ bây rồi
Chẳng cùng bây gần gũi
Nếu bây chẳng phục ta
Đến đâu ta cũng nói
Dạy người biết hết bây
Nếu bây biết phục ta
Ta bèn chẳng phân biệt
Cùng bây ở một chỗ
Đồng chứng vô sanh diệt.
Tâm với vọng tưởng không phải là một, cũng không phải là hai. Khi
biết được vọng tưởng thì nó sẽ lặn trở về tâm, tức là “đồng chứng vô
sanh diệt”. Có một vị tăng hỏi ngài Tào Sơn:
- Bậc sa-môn há chẳng phải đủ đại từ đại bi hay sao?
Ngài Tào Sơn trả lời:
- Phải.
Vị tăng hỏi tiếp:
- Gặp sáu thằng giặc đến thì sao?
Ngài trả lời:
- Cũng cần phải đủ đại từ đại bi.
Vị tăng lại hỏi:
- Thế nào đủ đại từ, đại bi?
Ngài nói:
- Dùng một gươm chém sạch.
Vị tăng hỏi:
- Khi sạch hết rồi sao?
Ngài đáp:
- Mới được hòa đồng.
Như vậy chúng ta phải luôn có cái tâm tỉnh giác để nhận ra được mọi
vọng tưởng, để giết mà không giết mới gọi là đại từ, đại từ bi. Và trong
đạo Phật, không phải giết bất cứ cái gì cả, chỉ có chuyển hóa mà thôi.
Nói tóm lại, cây gậy nhà thiền có hai công dụng: Dẹp hết mọi vọng
tưởng và chỉ ra chủ nhân ông. Và chúng ta tu, cũng chỉ có hai việc mà
thôi:
Một là, buông hết mọi sự.
Hai là, nhận ra bản tâm thanh tịnh vốn sẵn có của mình.
Ni Sư Hạnh Huệ
No comments :
Post a Comment