
Quán
Thế Âm nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian" là một vị Bồ
tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều
nền văn hóa khác nhau, Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ tát được tôn
kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không
chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.
Tên nguyên bản tiếng Phạn là Avalokiteśvara. Tên tiếng Hán Quán Thế Âm Bồ Tát (觀世音菩薩)
được phiên dịch từ tên tiếng Phạn "Avalokiteśvara Bodhisattva". Bồ tát
Quán Thế Âm thường được mô tả dưới nhiều dạng thân nam hay nữ, và cũng
có thể được biết đến với tên gọi đơn giản là Quan Âm.
Quán
Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế
gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang
tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng
sanh bị khổn ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài
liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
Trong
bát Nhã Tâm Kinh, Quán Thế Âm Bồ tát còn mang tên là Quán Tự Tại dựa
trên pháp môn tu tập của ngài. Khi quán chiếu thâm sâu vào chính mình,
ngài nhận thấy năm uẩn không có tự tính và đều là giả tạm, ngộ ra được
điều đó, ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn. Bồ tát Quán Thế Âm
còn được biết đến với tên gọi Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Từ Hàng hay Từ Hàng
Đại sĩ. Theo Kinh Đại bi Tâm Đà Ra Ni, đức Phật Thích Ca dạy ngài Anan
rằng trong vô lượng kiếp về trước, Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật,
hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn, vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi
cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sinh,
ngài mới hiện thân làm Bồ Tát, danh hiệu là Quán Thế Âm, thường trụ thế
giới Ta-bà, đồng thời cũng là thị giả trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A
Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.
Trong
Kinh Đại Bi Liên Hoa, Bồ tát Quán Thế Âm là quyến thuộc bồ đề của vô
lượng bồ tát khác và Phật A Di Đà, trước khi phát nguyện lớn, ngài là
Thái tử Bất Huyền, con trưởng trong một nghìn người con của Chuyển luân
vương Vô Tránh Niệm, người sau này là Phật A Di Đà. Bồ tát Quán Thế Âm
được Đức Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, Đức Phật A Di Đà dù có thọ mạng vô
lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cũng sẽ nhập niết bàn, khi đó Quán Thế Âm
Bồ Tát tiếp quản chánh pháp và cõi Cực Lạc, thành Phật hiệu là Biến Xuất
Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Theo Kinh Bát Nhã Ba
La Mật, Quán Thế Âm Bồ Tát được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một
triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được
tự tại, giải thoát.

Trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật đã giải thích rõ cho Vô tận ý Bồ Tát
về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm
thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu
khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó,
Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được
giải thoát. Cũng theo kinh này thì Quán Thế Âm Bồ tát có 32 ứng hóa hiện
thân là thân Phật, Bích Chi (Duyên Giác), Thinh Văn,Phạm Vương, Đế
Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn,
Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên, Long, Dạ xoa,
Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi
nhân, Thần chấp Kim Cang.
Sau này lại có thêm 33 hóa thân khác của Quán Âm, những hóa thân này không dựa vào Kinh sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 Ứng hóa thân trên pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản
và Trung Quốc mà tạo thành, đó là các hồng danh: Dương Liễu Quán Âm,
Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm,
Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán Âm, Thí Dược Quán Âm,
Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thủy Nguyệt Quán Âm, Nhất Diệp Quán
Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Chúng Bảo
Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Vô Úy Quán
Âm, Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly Quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục
Thời Quán Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm,
Nhất Như Quán Âm, Bất Nhị Quán Âm, Trì Liên Quán Âm, Sái Thủy Quán Âm.
Quán
Thế Âm Bồ Tát là bồ tát trợ tuyên đắc lực của Phật A Di Đà ở Tây Phương
Cực Lạc, Quán Thế Âm Bồ Tát thể hiện lòng Bi (sa., pi. karuṇā), một trong hai dạng của Phật tính. Vì vậy, danh hiệu của ngài thường kèm theo từ Đại Bi (sa. mahākāruṇika). Dạng kia của Phật tính là Trí tuệ (Bát nhã, sa. prajñā), là đặc tính được Bồ Tát Đại Thế Chí
thể hiện, bên tay phải của Phật A Di Đà. Với lòng từ bi vô lượng, Quán
Thế Âm thể hiện sức mạnh huyền diệu cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng
đến mình lúc gặp hiểm nguy. Trong nhân gian, Quán Thế Âm là vị bảo hộ
tránh khỏi tai hoạ và hay được phụ nữ không con cầu tự.

Trong
các loại tranh tượng về Quán Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác
nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát
có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu. Trên đầu có khi có tượng A-di-đà,
xem như đặc điểm chính. Trên tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì
vậy nên Quán Thế Âm cũng có tên là Liên Hoa Thủ (người cầm hoa sen, sa.
padmapāṇi) hay nhành dương liễu và một bình nước Cam-lộ (sa. amṛta).
Số tay của Bồ Tát biểu hiện khả năng cứu độ chúng sinh trong mọi tình
huống. Trong tranh tượng với 11 đầu thì Quán Thế Âm mang 9 đầu của chín
vị Bồ Tát, một đầu của một vị Phật và cuối cùng là đầu của Phật A-di-đà.
Cứ mỗi ba đầu tượng trưng là ba đặc tính: từ bi với chúng sinh khổ nạn,
quyết tâm đối trị cái xấu, hoan hỉ với cái tốt. Theo một cách nhìn khác
thì 11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập địa và Phật quả.
Đôi
lúc Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được trình bày dưới một dạng ít thấy, đó là
"Sư Tử Hống Quán Tự Tại". Dưới dạng này, Bồ Tát là một Dược sư, đặc
biệt cứu độ những người bệnh phong cùi. Mắt Bồ Tát đang nhìn bệnh nhân
và mắt chính giữa (huệ nhãn) đang tập trung chẩn bệnh. Hai bảo vật bên
vai cũng là những dụng cụ của một dược sĩ, bình sắc thuốc bên trái của
Bồ Tát và đao trừ tà (bệnh) bên phải. Sư tử Bồ Tát cưỡi xuất phát từ một
sự tích. Tương truyền rằng, có một con sư tử sinh được một con nhưng
con chết ngay sau khi sinh. Đau đớn quá nó rống lên thật to và nhờ tiếng
rống uy dũng này, nó làm cho con nó sống lại. Vì thế mà có sự liên hệ
giữa tên của Sư Tử Hống Quán Tự Tại ("giọng sư tử") với nghề nghiệp của
một dược sĩ "gọi người sống lại". Một thuyết khác giải thích tích của 11
đầu và nghìn tay: lúc Quán Thế Âm quán chiếu cảnh khổ của chúng sinh
thì đầu Bồ Tát đau xót vỡ ra từng mảnh. Phật A-di-đà xếp các mảnh đó lại
thành 11 đầu. Xuất phát từ nguyện lực cứu độ mọi chúng sinh, thân Bồ
Tát mọc ra nghìn tay, trong mỗi tay có một mắt. Quán Thế Âm cũng hay
được vẽ là một vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong sáu nẻo Luân hồi (Lục
đạo): trong súc sinh, Quán Thế Âm đầu ngựa, hoặc cưỡi sư tử; trong địa
ngục, người có nghìn cánh tay; trong cõi A-tu-la, người có 11 đầu.

Quán
Thế Âm Bồ tát còn được trình bày dưới dạng thân nữ Bạch Y Hành Giả, tức
vị nữ hành giả mặc y phục màu trắng. Tại Tây Tạng, Quán Thế Âm là
"người bảo vệ xứ tuyết" và có ảnh hưởng trung tâm trong truyền thống
Phật giáo tại đây.
Người
ta xem Bồ Tát là cha đẻ của dân tộc Tây Tạng và nhờ Ngài mà Phật giáo
được truyền bá qua nhà vua Tùng-tán Cương-bố, được xem là một hiện thân
của Quán Thế Âm. Đạt lai Lạt ma và Cát-mã-ba cũng được xem là hiện thân
của Quán Thế Âm. Câu Man-tra OM MA-NI PAD-ME HUM được xem là thuộc tính
của Quán Thế Âm, là thần chú đầu tiên truyền đến Tây Tạng và ngày nay
được tụng đọc nhiều nhất.
Đệ tử Trí Bửu: Kính lạy ngày Bồ tát Quán Thế Âm đản sinh (19/2 Bính Thân)
No comments :
Post a Comment