![]() |
Venerable Karma Lekshe Tsomo |
BUDDHIST NUNS IN THE GLOBAL COMMUNITY Karma Lekshe Tsomo | Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài
viết ngắn phân tích hiện trạng của người nữ tu sĩ Phật giáo trên toàn
thế giới. Trong suốt lịch sử nhân loại, vị trí của người phụ nữ luôn bị
xếp vào hàng thứ yếu trong xã hội, và người nữ tu sĩ thì "thấp kém" hơn
các nam tu sĩ trong lãnh vực tín ngưỡng. Phật giáo cũng không hoàn toàn
tránh khỏi ảnh hưởng của tình trạng đó, dù rằng điều này đi ngược lại
Giáo Huấn của Đức Phật. Bài này được viết cách nay đã 10 năm, trong
khoảng thời gian này nhiều cải thiện đã được thực hiện, thế nhưng dường
như vấn đề này vẫn còn là một đề tài nóng bỏng.
Ni sư Karma Lekshe, tác giả bài viết
không phải là một phụ nữ xa lạ. Bà là người Mỹ, tiến sĩ triết học, giáo
sư tại đại học San Diego giảng dạy về Phật giáo và các tôn giáo khác,
tác giả của nhiều chục quyển sách về Phật giáo. Thế nhưng điều đáng để
chúng ta ngưỡng mộ và khâm phục hơn nữa là bà là một trong số các nữ tu
sĩ Phật giáo đầu tiên được chính thức thụ phong Tỳ kheo ni Tây Tạng, và
là đệ tử của các vị Đạt-lai Lạt-ma Gyalwa Karmapa XVI, Geshe Ngawang
Dhargyey, và Geshe Rabten, đồng thời bà cũng là đồng chủ tịch và sáng
lập viên Hiệp Hội Sakyadhita, nguyên nghĩa là "Những người con gái của
Đức Phật", một hiệp hội quốc tế của những người phụ nữ Phật giáo. Ngoài
ra bà cũng là sáng lập viên và chủ tịch Quỹ tài trợ Jamyang (Jamyang
Foundation) với mục đích giúp người phụ nữ tại các nước đang phát triển
được học hành. Có thể liên lạc với bà qua Email: tsomo@sandiego.edu
- Phone: (619) 260-4600 x4921 - Office: Univ. of San Diego, Maher Hall
295. Bản chuyển ngữ dưới đây được dựa vào bản gốc tiếng Anh trên trang
mạng của những người phụ nữ Phật giáo Âu Châu
(http://www.buddhistwomen.eu/EN/index.php/Texts/BuddhistNuns).
Bài viết này cũng đã được dịch sang tiếng Đức (đăng trên một tập san Phật giáo bằng tiếng Đức "Tibet und Buddhismus"/"Tây Tạng và Phật giáo",
số 79, tháng 4 năm 2006, của Trung tâm Tây Tạng tại thành phố Hamburg,
Đức Quốc), và tiếng Pháp
(http://www.buddhistwomen.eu/FR/index.php/Textes/Tibulekshe).
Đây là bài thứ 7 trong loạt bài "Phật giáo và người phụ nữ".Bài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet)
Bài 5: Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey)
Bài 6: Làm mẹ với tấm lòng của Phật (Jaqueline Kramer- Sanitsuda Ekachai)Bài 7: Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay (Ven. Karma Lekshe Tsomo)
![]() |
Ni sư Karma Lekshe Tsomo và hai phụ nữ trong vùng Ladakh trên miền bắc Ấn
|
NGƯỜI NỮ TU SĨ PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAYBUDDHIST NUNS IN THE GLOBAL COMMUNITYKarma Lekshe Tsomo | Hoang Phong chuyển ngữ
TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAYBUDDHIST NUNS IN THE GLOBAL COMMUNITYKarma Lekshe Tsomo | Hoang Phong chuyển ngữ
Sự sinh hoạt tập thể trong các tăng đoàn nữ giới phản
ảnh một lối sống khá đặc thù trong các xã hội Phật giáo từ những thời kỳ
thật xa xưa. Đức Phật Sakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) nêu lên con đường từ
bỏ [gia đình] như là một phương pháp hữu hiệu nhất mang lại sự giải
thoát, và nhiều người phụ nữ cũng đã bước theo con đường đó, trước hết
là mẹ nuôi và cũng là dì của Ngài là bà Mahaprajapati (Ma-ha Bà-xà Ba-đề
Cồ-đàm ni). Cũng tương tự như những người từ bỏ [gia đình] khác (thuộc các tín ngưỡng khác)
vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, các nam và nữ tu sĩ Phật giáo cũng tự
nguyện sống độc thân, tiết dục, đơn sơ, tránh mọi sự bám víu, lánh xa
các thú vui trần tục, hầu giúp mình chú tâm hơn vào việc tu tập tâm
linh. Một người Phật giáo từ bỏ [gia đình], tách ra khỏi thế giới trần
tục, sẽ tạo ra các điều kiện thuận lợi giúp mình hoàn toàn tập trung vào
việc tìm kiếm sự giải thoát và giác ngộ.
Sự hình thành và phát triển của Tăng đoàn Tỳ kheo ni
Dòng tu nữ giới được thành lập khi bà Mahaprajapati (mẹ nuôi của Đức Phật)
xin Ngài cho phép người phụ nữ được gia nhập Tăng Đoàn (Sangha) của
Ngài. Dù lúc đầu còn do dự, thế nhưng Đức Phật cũng đã xác nhận rằng
người phụ nữ hoàn toàn hội đủ khả năng thực hiện được quả mang lại từ
con đường, và đạt được giác ngộ. Với sự chấp thuận của Đức Phật Tăng
Đoàn Tỳ kheo ni (Bhiksuni Sangha) được thành lập khoảng năm hay sáu năm
sau Tăng Đoàn Tỳ kheo [nam giới] (Bhiksu Sangha). Dưới sự lãnh đạo khéo
léo của bà Mahaprajapati, tăng đoàn nữ giới phát triển nhanh chóng, hàng
ngàn phụ nữ đã tinh khiết hóa được tâm thức và giải thoát mình ra khỏi
khổ đau và chu kỳ sinh tử, và đã trở thành arhat (A-la-hán). Kinh điển
xưa có đưa ra một danh sách gồm nhiều vị trong số các nữ tu sĩ đầu tiên
trên đây, mà các sự thành đạt của họ đã được chính Đức Phật công nhận,
chẳng hạn như ni sư Khema có trí tuệ siêu việt, ni sư Dhammadinna có
nhiều năng khiếu giảng dạy, ni sư Nanda có nhiều kinh nghiệm về thiền
định, v.v.
Đức Phật vạch ra con đường phát huy tâm linh mà tất cả
mọi người, nam và nữ, đều có thể bước theo, và trên nguyên tắc cả hai,
nam và nữ, đều có cùng khả năng đạt được sự giải thoát như nhau. Thế
nhưng chế độ phụ hệ trong xã hội Ấn có thể là nguyên nhân khiến các tiêu
chuẩn giới luật áp dụng cho tu sĩ nữ giới khắt khe hơn so với tu sĩ nam
giới. Theo truyền thống thì bà Mahaprajapati phải tuân thủ thêm tám
giới luật đặc biệt (gurudharmas/tám điều kiện trọng đại), bắt người Tỳ
kheo ni (dù đã được thụ phong trọn ven) phải lệ thuộc vào người Tỳ kheo
[nam giới] (đã được thụ phong toàn vẹn). Trên dòng lịch sử phát triển
của tăng đoàn nữ giới người tỳ kheo ni, ngoài các giới luật áp dụng cho
nam tu sĩ, còn phải tuân thủ thêm khoảng 100 giới luật khác.
Tuy nhiên, trong cuộc sống thường nhật các nữ tu sĩ tự
quản lý lấy tăng đoàn của mình, quán xuyến mọi việc, tự chọn lựa xem
những ai có thể được phép gia nhập tăng đoàn của mình. Các nam tu sĩ chỉ
tiếp xúc và cố vấn họ hai lần mỗi tháng, và phải luôn ở bên cạnh họ tại
những nơi mà họ ẩn cư trong ba tháng vào mùa mưa, với mục đích bảo vệ
họ. Ngoài ra thì các nữ tu sĩ sống hoàn toàn độc lập. Vào thời kỳ Đức
Phật còn tại thế, người phụ nữ chọn cuộc sống tu hành không nhất thiết
là vì mục đích mong cầu tìm sự giải thoát tâm linh cho mình, mà còn là
một phương tiện giải thoát mình khỏi những sự trói buộc của gia đình,
chẳng hạn như các thói tục thời bấy giờ bắt người phụ nữ phải tùng phục
chồng, mẹ chồng, phải liên tục sinh con đẻ cái, đảm đang các công việc
nội trợ chẳng bao giờ dứt.
Nhiều bằng chứng lịch sử thật hiển nhiên cho thấy dòng tu
của các nữ tu sĩ đã từng tồn tại và phát triển trong suốt mười lăm thế
kỷ ở Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, con gái của hoàng đế
Azoka (A-dục) là Sanghamitra được mời sang Tích Lan để thụ phong cho
Công chúa Anula và hàng trăm phụ nữ Tích Lan khác mong muốn được bước
vào con đường tu hành. Bà Sanghamitra rời Ấn sang Tích Lan mang theo một
chồi cây bodhi (Bồ đề) và đã thành lập Tăng Đoàn Tỳ kheo ni cho Tích
Lan,. Tăng đoàn của các nữ tu sĩ Tích Lan tồn tại ít nhất cũng phải đến
thế kỷ thứ IX sau Tây Lịch.
Truyền thống thụ phong toàn vẹn cho các nữ tu sĩ trên đảo
Tích Lan được truyền sang Trung Quốc vào thế kỷ thứ V sau Tây Lịch,
nhân dịp một tỳ kheo ni tên là Devasara du hành sang Trung Quốc và lưu
lại hai năm tại Nam Kinh. Năm 433 sau Tây Lịch bà cùng với đoàn tùy tùng
đứng ra tổ chức lễ thụ phong cho vài trăm nữ tu sĩ Trung Quốc, đánh dấu
sự hình thành của Tăng Đoàn Tỳ kheo ni đầu tiên của nước này. Tăng đoàn
tỳ kheo ni từ Trung Quốc lại lan sang Triều Tiên, Đài Loan, và tiếp tục
phát triển tại các nơi này cho đến nay. Trong khoảng thời gian nhiều
thập niên gần đây, các nữ tu sĩ Tích Lan và các nước khác bắt đầu tái
lập các Tăng Đoàn nữ giới theo truyền thống của xứ sở mình trước đây,
nhờ vào sự thụ phong của các dòng truyền thừa tỳ kheo ni còn tồn tại qua
hằng bao thế kỷ tại các nước trên đây (Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan...).
Tương tự như màu sắc của một cầu vồng
Cuộc sống của những người nữ tu sĩ Phật giáo ngày nay
thật khác biệt nhau, tùy tông phái, xứ sở và từng tu viện, và cũng có
thể là tùy theo từng người. Các nữ tu sĩ mặc áo với nhiều màu sắc khác
nhau, nói nhiều thứ tiếng khác nhau, tu tập theo nhiều cách và sống theo
nhiều lối sống khác nhau. Trong cuộc sống của họ chỉ có một điểm giống
nhau là đầu cạo trọc, khoác lên người chiếc áo của người tu hành và cùng
tuân thủ một số giới luật giống nhau. Các giới luật áp dụng cho họ chủ
yếu cũng là các giới luật chung cho tất cả những người Phật giáo là:
không được sát sinh, trộm cắp, nói dối, tránh các hành vi tính dục bất
chính, không được dùng các chất ma túy. Điểm khác biệt duy nhất là đối
với người tu tập tại gia là họ chỉ phải tránh các hành vi tính dục bất
chính, trong khi đó thì người nữ tu sĩ (và cả nam tu sĩ) phải thệ nguyện
hoàn toàn tiết dục. Cuộc sống độc thân đó không phải chỉ có nghĩa là
không được lập gia đình, mà cũng không được giao du thân mật, sự tự
nguyện đó giải thoát họ khỏi mọi thứ ràng buộc trong bối cảnh gia đình.
Những người nữ tu sĩ Phật giáo ngày nay sống rải rác trên
khắp thế giới, từ Campuchia đến Mông Cổ, từ Thụy Điển đến Tân Tây Lan.
Tại các nước theo Phật giáo Theravada thì người nữ tu sĩ mặc áo trắng,
cam hay nâu, trong các vùng Đông Á thì họ mặc áo màu lam, đen hay màu
tím (màu tía/purple), tại các nơi theo Phật giáo Tây Tạng thì mặc áo màu
nâu đỏ (maroon/nâu đỏ hay nâu sậm) hoặc vàng. Họ nói nhiều thứ tiếng,
từ các thổ ngữ của các bộ tộc đang có nguy cơ bị diệt chủng ở Bangladesh
cho đến tiếng Anh hiện đại chen đầy tiếng lóng của dân Anh tại thủ đô
Luân Đôn. Phương tiện sinh sống cũng khác nhau, các nữ tu sĩ Tích Lan
ngày ngày khất thực khắp nơi trong nước, các nữ tu sĩ Đài Loan thì
trường chay trong chùa. Một số nữ tu sĩ thệ nguyện suốt đời không chạm
đến đồng tiền, một số khác thì làm năm bảy nghề, kể cả cho vay thế chấp.
Một số chăm lo thiền định và ẩn cư, một số khác thì quản lý các ngôi
chùa tấp nập, đứng ra sắp xếp các chương trình thuyết giảng quốc tế. Một
số ăn chay trường thật nghiêm túc, không ăn trứng, hành, tỏi, một số
khác không kiêng cử gì cả khi dùng các thực phẩm cúng dường. Nhiều người
không biết đọc biết viết, nhưng cũng có một số có bằng tiến sĩ. Tất cả
sự đa dạng đó phản ảnh tính cách phong phú và phức tạp của những người
nữ tu sĩ trong thế giới tân tiến ngày nay.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Theravada
Các nữ tu sĩ tu tập theo Phật giáo Theravada sống ở Miến
Điện, Campuchia, Lào, Tích Lan và Thái Lan, tuy nhiên cũng thấy có một
vài tập thể nhỏ ở Bangladesh, Ấn Độ và Việt Nam. Lối sống của họ dựa vào
các khuôn mẫu quy định cho các tăng đoàn nữ giới từ những thời kỳ xa
xưa. Họ mặc áo vải đơn sơ, sống bằng khất thực, không được phép dùng
thêm các thức ăn đặc sau bữa ăn trưa. Các dasasil mata (là các nữ tu sĩ tuân thủ 9 hay 10 giới luật, nhưng chưa được thụ phong) ở Tích Lan mặc áo màu cam hay nâu, các tila shin (như
đã được giải thích trong ghi chú trên đây, tác giả có ý dùng các ngôn
ngữ địa phương để chỉ các nữ tu sĩ Phật giáo tại những nước chưa có
truyền thống thụ phong trọn vẹn cho họ) mặc màu hồng hay nâu; các dongchee ở Campuchia, các maekhao ở Lào, và các maechee
ở Thái Lan thì mặc áo trắng. Tại Tích Lan có khoảng 2 000 tu sĩ nữ
giới, 60 000 ở Miến Điện, 900 ở Campuchia, 400 ở Lào, 20 000 ở Thái Lan.
Họ tuân thủ 8, 9 hay 10 giới luật. Ngoài việc tuân thủ các giới luật
dành cho các Phật tử tại gia trên đây, họ còn tự nguyện không đeo nữ
trang, nhảy múa, và hát xướng, không nằm giường cao, ngồi ghế rộng,
không dùng thêm thực phẩm đặc sau bữa ăn trưa. Ngoài ra đối với những
người tuân thủ 10 giới luật thì cũng không được phép dính dáng đến vàng,
bạc và tiền. Dù không hội đủ số tỳ kheo ni đủ tư cách thụ phong cho họ,
thế nhưng không phải vì thế mà xem họ là các sramanerika (sa di ni).
Các nữ tu sĩ Phật giáo Theravada tụng niệm kinh điển bằng
tiếng Pa-li và thiền định mỗi ngày hai lần, vào sáng sớm và chiều tối,
mỗi lần khoảng một tiếng. Ngoài ra trong ngày họ luyện tập một phép
thiền định thật chuyên biệt gọi là Vipassana (tiếng
Phạn là Vipasyana, nguyên nghĩa là sự "quán thấy sâu xa" - Hán dịch là
"minh sát" - quán thấy ở đây có nghĩa là quán thấy bản chất đích thật
của mình, tâm thức mình và thế giới. Sự quán thấy đó mang tính cách trực
giác, đôi khi hiện lên rất đột ngột, giúp người hành thiền hòa nhập vào
chính sự quán thấy ấy của mình ngay trong lúc đó, nói một cách khác là
sự quán thấy ấy và chính mình trở thành "một". Phép luyện tập thiền định
nói chung thường gồm hai giai đoạn hay cấp bậc: trước hết là phải phát
huy một sự chú tâm cao độ, mang lại cho mình một thể dạng tâm thức thăng
bằng, phẳng lặng, trong sáng. Trong thể dạng đó mọi sự xao lãng và các
xúc cảm bấn loạn đều lắng xuống. Thể dạng này thường được gọi là
Samatha/Chỉ, nói một cách cụ thể và dễ hiểu hơn thì đấy là một tâm thức
mở rộng, êm ả, thanh thoát và nhẹ nhàng, các biên giới thời gian và
không gian mờ đi và gần như biến mất. Trong thể dạng đó tâm thức sẽ trở
nên bén nhạy, tinh khiết và dần dần đưa đến một thể dạng khác sâu xa hơn
gọi là Samadhi/Định. Thể dạng Samadhi - khác hơn với thể dạng vắng lặng
và không xao động gọi là Samatha trên đây - sẽ rất linh hoạt và hàm
chứa một khả năng quán nhận thật sắc bén, bao quát và tuyệt đối gọi là
Prajna (Trí Tuệ), giúp người hành thiền nhận biết một cách minh bạch và
chính xác về các khái niệm mà trước đây mình chỉ hiểu một cách mơ hồ hay
đại khái bằng cách suy diễn và lý luận mang tính cách nhị nguyên, chẳng
như các khái niệm về vô ngã, vô thường, khổ đau, niết bàn, sự đình
chỉ/nirodha, tính cách ảo giác và tương liên giữa mọi hiện tượng, tính
cách nhị nguyên của tư duy, tri thức, sự hiểu biết/nana, v.v. Sự quán
thấy đồng loạt và trực giác đó đôi khi còn gọi là sự "cảm nhận" mọi sự
vật "chỉ là như thế" hay "như lai") và tham dự các khóa giảng
Pháp và ẩn cư tổ chức theo các định kỳ đều đặn. Một số chọn lối sống
biệt tu, tìm sự vắng lặng nhằm tránh xa các sự cám dỗ và bon chen của xã
hội thường tình. Một số khác sinh sống trong các vùng làng mạc đông
dân, đô thị và thành phố, hầu giúp đỡ người thế tục trong cuộc sống tâm
linh của họ, và đấy cũng là một cách giúp người tu hành hòa mình với
người thế tục: một bên thì tụng niệm các kinh paritta (kinh cầu
an) một bên thì hiến dâng các nhu cầu vật chất. Nhiều người đứng ra
khuyên giải người thế tục hoặc giảng dạy Dharma (Đạo Pháp) cho họ, nhất
là cho phụ nữ và trẻ em, hoặc góp phần tích cực vào sự sinh hoạt của các
chùa chiền và tu viện lớn.
Trước đây không lâu, các nữ tu sĩ Phật giáo
Theravada vẫn chưa hề được chính thức thụ phong toàn vẹn hầu giúp mình
trở thành các bhikkuni (tỳ kheo ni), chẳng qua là vì truyền thống
thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ do chính Đức Phật thiết lập khi thụ
phong cho bà Mahaprajapati (mẹ nuôi của Đức Phật)
đã bị mai một tại một số nước (chẳng hạn như Ấn Độ, Miến Điện và Tích
Lan), hoặc chưa hề được thiết lập tại một số các nước khác (chẳng hạn
như Campuchia, Lào, Thái Lan). Nếu không được thụ phong toàn vẹn thì các
người nữ tu sĩ không được xem là thuộc thành phần của Sangha (Tăng
đoàn), không được giúp đỡ vật chất đầy đủ, không có nhiều dịp học hỏi,
và cũng không được quý trọng như các tu sĩ nam giới. Họ sống độc lập bên
trong các tăng đoàn riêng, hoặc chung với các tu sĩ nam giới trong các
chùa chiền của họ. Vào những năm gần đây một số bắt đầu hòa mình vào sự
sinh hoạt xã hội (tức là có nghề nghiệp giúp mình làm kế sinh nhai),
và từ năm 1988 một số tìm cách được thụ phong toàn vẹn. Tăng đoàn Tỳ
kheo ni Theravada quan trọng nhất là ở Tích Lan, khoảng 500 nữ tu sĩ
trên hòn đảo này đã được thụ phong toàn vẹn góp phần tái lập lại Tăng
đoàn Tỳ kheo ni (Bhikkhuni Sangha) và làm sống lại truyền thống lâu đời
do ni sư Sanghamitra (con gái vua A-dục) đã đưa vào Tích Lan trước đây.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Mahayana (Đại Thừa)
Các nữ tu sĩ Đại Thừa (Mahayana) tu tập dựa theo các dòng
truyền thừa được truyền đi từ Trung Quốc hay Tây Tạng. Dòng truyền thừa
nữ giới Tích Lan được đưa vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ V sau Tây Lịch,
và sau dó từ Trung Quốc vào Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam,
và sau hết là các tập thể người Hoa ở Indonêxia, Mã lai, Phi Luật Tân,
Singapore và các nơi khác trên toàn thế giới. Lối sống của họ tùy thuộc
vào các môi trường sống khác nhau, chẳng hạn như những nơi có khí hậu
lạnh và các nền văn hóa khác với Ấn Độ. Thay vì khất thực thì họ trực
tiếp nhận các vật cúng dường như rau trái và tự nấu ăn lấy, và thường
thì họ tự trồng trọt lấy. Các nữ tu sĩ tu tập theo các truyền thống này
thường ăn mặc các màu gần với màu đen (màu chàm) hoặc màu xám (màu lam), may cắt theo kiểu áo của các nho sĩ thời nhà Đường (Trung Quốc). Ở Triều Tiên có khoảng 20 000 nữ tu sĩ, 2 000 ở Nhật, 20 000 ở Đài Loan, 14 000 ở Việt Nam, vài ngàn ở Trung Quốc (trên
tổng số 1 tỉ 400 triệu dân! Đấy là kết quả mang lại từ nền văn minh vật
chất ngày nay. Tàn phá các giá trị tinh thần, truyền thống và nền văn
minh lâu đời của một dân tộc, để đổi lấy các cơ xưởng sản xuất vật dụng
rẻ tiến cho cả thế giới tiêu dùng, gây ô nhiễm đưa đến đủ mọi thứ bệnh
tật cho người dân, và cất giữ mốt số giấy tờ chứng khoán trong ngân hàng
- có thể cháy hết trong một cơn hỏa hoạn bất cứ lúc nào - quả là một sự
đánh đổi không tương xứng, khờ khạo và dại dột), và vài trăm trong các tập thể những người Trung Quốc cộng sản sống ở hải ngoại.
Truyền thống Tỳ kheo ni phát triển rất mạnh trong các
tăng đoàn Đại Thừa (Mahayana). Những người phụ nữ muốn bước vào con
đường tu tập sẽ được các Tỳ kheo ni lão thành hướng dẫn, tuy nhiên họ
cũng có thể học phép thiền định và kinh sách với các tu sĩ cả nam và nữ
giới. Các nữ tu sĩ theo truyền thống Đại Thừa họp mỗi ngày hai lần, vào
buổi sáng và buổi tối để tụng niệm các kinh bằng tiếng Hán, hoặc các câu
Man-tra (các câu chú mang tính cách thiêng liêng)
bằng tiếng Phạn, hoặc các kinh điển bằng ngôn ngữ của dân tộc mình. Vào
các dịp lễ âm lịch, họ tổ chức các khóa tu tập hướng vào nhiều vị Phật
và Bồ-tát khác nhau. Trong các dịp lễ này họ tụng niệm hai lần mỗi ngày,
sáng và chiều, mỗi lần có thể kéo dài nhiều tiếng, đôi khi có thể là
nhiều ngày. Các nghi lễ này hướng vào Phật Amitaba (A-di-đà), là vị Phật
"vô lượng thọ" (thọ mệnh vô lượng) và "vô lượng quang" (ánh sáng vô lượng),
và vị Bồ-tát Avalokiteshavara (tiếng Trung Quốc là Guan Yin/Quan Âm),
biểu trưng cho lòng từ bi, cả hai vị này đều được tôn thờ rộng rãi trong
dân chúng. Rất nhiều nữ Phật tử tại gia cùng tham gia với họ, ủng hộ họ
rất hậu về tài chính, mua hoa và cúng dường thực phẩm. Nhằm hồi đáp
lại, các nữ tu sĩ dạy cho họ thiền định và giảng Pháp cho họ, cố vấn họ
về các vấn đề gia đình, tham dự lễ mai táng, xoay sở mọi việc giúp các
gia đình có người thân qua đời, tổ chức các trại họp bạn cho thiếu nhi
và các thanh thiếu nữ, mở các khóa dạy nấu ăn chay, hoặc cắm hoa, v.v.
Trong khoảng mười năm sau này, Phật giáo lớn mạnh tại hầu
hết các nước theo Đại Thừa, tất cả nhờ vào sự nhiệt tình và hăng say
của các nữ tu sĩ. Nếu nhìn thật gần thì sẽ thấy trong các nước đó người
Phật giáo đã thành lập được nhiều trung tâm đào tạo hiện đại với các
chương trình giảng dạy giáo lý Phật giáo gồm từ bốn đến năm năm học,
dành cho các nữ và nam tu sĩ và cả người thế tục. Nhờ vào các chương
trình đào tạo và giảng dạy đầy đủ đó, các nữ tu sĩ trở nên tích cực hơn
trong sự sinh hoạt xã hội, tham gia vào việc in ấn, dịch thuật, chăm sóc
người ốm đau, công tác trong chốn lao tù, hướng dẫn trẻ em, giúp đỡ
người già yếu, tiếp tay với các trạm y tế, các nhà dưỡng lão, và vô số
các công việc khác.
Các nữ tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Truyền thống tu tập của người phụ nữ Tây Tạng trải qua
một lịch sử rất lâu đời, thế nhưng cũng tương tự như trường hợp của
những người phụ nữ ở các nơi khác trên địa cầu, các thành tích của họ
không hề được ghi chép cẩn thận. Nền văn hóa Tây Tạng cũng đã được phát
triển ra ngoài biên giới của xứ sở này, chẳng hạn như tại các vùng
Bhoutan, Mông Cổ, Nepal, Buryatia (Bouriatie, Burjatie..., là một xứ tự trị thuộc nước Nga, sát với biên giới bắc Mông Cổ), Kalmykia (Kalmukia/Kalmukie/Kalmoukie..., một nước tự trị bé xíu phía bắc xứ Georgia và biển Caspian)
và một số các vùng khác của Liên Bang Xô Viết trước kia, và cả các vùng
biên giới bắc Ấn Độ thuộc phía tây rặng Hy-mã Lạp-sơn như: Kinnaur,
Laddakh, Lahaul, Spiti, và vùng Zanskar thuộc phía tây Ấn độ, sát với
biên giới phía nam của Pakistan, và cả trong các tập thể người dân Tây
Tạng sống lưu vong ở Ấn, Nepal và các nước khác. Tại tất cả các nơi này
đều thấy có các nữ tu sĩ, thế nhưng ít hơn nam giới và cũng không tạo
được nhiều ảnh hưởng như họ. Thường thì họ chỉ tuân thủ 10 giới luật
dành cho những người sramanerika (sa di ni/novice nun),
nhưng vẫn được xem là thuộc vào thành phần của Tăng Đoàn. Việc thụ
phong toàn vẹn cho những người nữ tu sĩ Tây Tạng chưa bao giờ được thực
hiện (kể cả trong quá khứ).
Dầu sao cũng không thấy kinh sách Tây Tạng ghi chép gì nhiều vể những
người tỳ kheo ni, và các dòng thụ phong toàn vẹn cho người phụ nữ cũng
chưa bao giờ được chính thức thành lập trong Phật giáo Tây Tạng. Con
đường từ Ấn Độ lên Tây Tạng xuyên qua những vùng núi cao đầy tuyết phủ
của rặng Hy-mã Lạp-sơn rất nguy hiểm, ngay cả đối với các nam tu sĩ, vì
vậy đây có thể là nguyên nhân khiến các nữ tu sĩ [từ Ấn Đột] không đến
được nơi này (các người phụ nữ Tây Tạng
bắt đầu tu tập từ lâu đời, thế nhưng chưa bao giờ thành lập được các
dòng truyền thừa như các người đồng tu nam giới, hoặc các tặng đoàn nữ
giới như ở các nơi khác).
Có khoảng 1 290 nữ tu sĩ tu tập theo Phật giáo Tây Tạng ở
Ấn và Nepal, và ít nhất cũng có một số tương đương trong xứ Tây Tạng dù
đang bị cộng sản chiếm đóng, và thật ra thì cũng khó ước tính một cách
chính xác được (nhiều học giả cho rằng
tỷ lệ xuất gia rất cao của phụ nữ bên trong xứ Tây Tạng là một hình thức
bất hợp tác chống lại sự cai trị của Trung Quốc). Hầu hết
các nữ tu sĩ Tây Tạng thường chọn cách ẩn tu và thiền định, và thực thi
cả các nghi lễ của Kim Cương Thừa. Phương pháp quán tưởng hướng vào các
vị Bồ-tát hoặc các vị Phật, có thể giúp đạt được các phẩm tính của thần
linh yidam (thần linh của phép quán tưởng). Chẳng hạn như nếu quán tưởng
chính mình là vị Avalokitesvara (Quán Thế Âm, tiếng Tây Tạng là
Chenresig), là vị Bồ-tát của lòng từ bi, thì dần dần chính mình cũng sẽ
hóa thành vị ấy và mang phẩm tính từ bi thật hoàn hảo của vị ấy. Theo
truyền thống tu tập Tan-tra, thì người tu tập có thể đạt được giác ngộ
với thân xác của mình ngay trong cuộc sống này. Do đó có thể hiểu rằng
sự giác ngộ hoàn hảo cũng có thể đạt được qua thể dạng của một người phụ
nữ. Trong số các vị Phật và Bồ-tát được tôn thờ rộng rãi nhất có nhiều
vị thuộc nữ giới, chẳng hạn như Tara và Vajrayogini, thường được xem như
các thần linh quán tưởng cho cả nữ và nam giới.
Trước thập niên 1980, việc tu tập của các nữ tu sĩ Tây
Tạng chủ yếu là tụng niệm, thực thi nghi lễ và thiền định. Vì truyền
thống trọng nam khinh nữ trong chốn chùa chiền, nên các chương trình
giảng dạy căn bản về giáo lý Phật giáo trong ba tu viện đại học lớn ở
miền nam nước Ấn (Drepung, Ganden và Sera) và cả Viện Phật giáo Biện
chứng (Institute of Buddhist Dialectics) (biện
chứng là một phương pháp lý luận, đối chứng, thảo luận... nhằm tìm hiểu
hay chứng minh một đường hướng tư tưởng, một sự hiểu biết hay sự thật
nào đó. Khoa "Phật giáo Biện chứng" cũng có thể xem tương đương với khoa
"Thần học" của các tôn giáo Độc thần) ở Dharamsala (bắc Ấn Độ, nơi cư ngụ của Đức Đạt-lai Lạt-ma)
không thu nhận các học viên nữ tu sĩ. Các nữ tu sĩ chỉ có thể học hỏi
giáo huấn Phật giáo vào các dịp thuyết giảng đông đảo dành cho quảng đại
quần chúng, nhưng không đuợc học kinh điển một cách quy củ. Trên nguyên
tắc chùa chiền tốt nhất cho người nữ tu phải được thiết lập ở những nơi
hẻo lánh hầu tránh mọi sự tiếp xúc giữa họ và xã hội thế tục, nhưng đấy
cũng là cách gây ra khó khăn cho họ trong việc học hỏi giáo lý, thường
thì họ chỉ được học hỏi thêm nhờ vào các dịp lễ hội lớn. Cộng sản xâm
chiếm Tây Tạng, Mông Cổ và các vùng theo Phật giáo ở Nga vào thế kỷ XX,
đã mang lại nhiều hậu quả thật thảm hại cho các nữ tu sĩ, kể cả nam tu
sĩ và các người Phật giáo thế tục. Chẳng hạn các nữ tu sĩ không mấy khi
được theo học các chương trình giảng dạy Phật giáo ở cấp bậc cao và có
quyền đứng ra giảng dạy Dharma (Đạo Pháp).
Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, dù phải đối đầu với
tất cả các thứ khó khăn trên đây, thế nhưng nhiều cải tiến đáng kể trong
cuộc sống của những người nữ tu sĩ trong các vùng chịu ảnh hưởng của
nền văn hóa Tây Tạng, cũng đã được thực hiện. Họ tìm mọi cách để được
học hỏi giáo huấn và noi theo các thái độ hành xử do Đức Đạt-lai Lạt-ma
cũng như các vị Lạt-ma khác đưa ra, là những người từng được học hỏi
Phật giáo trên đất nước Tây Tạng trước khi bị cộng sản xâm chiếm. Nhờ
tấm gương của các vị thầy trên đây và đồng thời ý thức được quyền hạn
của người phụ nữ, nên các nữ tu sĩ đã bắt đầu bắt tay vào việc soạn thảo
các chương trình giảng dạy và thành lập các trung tâm đào tạo dành cho
các phụ nữ Phật giáo trong toàn vùng Hy-mã Lạp-sơn. Các chương trình
giảng dạy này đã tạo dịp cho người nữ tu sĩ được học về triết học Phật
giáo và tham gia vào các cuộc tranh luận. Các nữ tu sĩ Phật giáo Tây
Tạng bắt đầu được theo học các chương trình giảng dạy thật nghiêm chỉnh
về Phật giáo biện chứng, và hàng năm được tham dự các buổi họp mặt giữa
các tu viện và chùa chiền để cùng so tài hiểu biết với nhau, khởi sự
trước hết là tại Dharamsala và sau đó đã lan ra các nơi khác, như Nepal
và các vùng lân cận của rặng Hy-mã Lạp-sơn. Chùa chiền đầy ắp các nữ tu
sĩ, họ chỉ mong được học các kinh điển thật khó. Các chương trình giảng
dạy cũng như các sự khích lệ của những người chung quanh đã mang lại
nhiều tự tin cho họ, ngày càng có nhiều người biết đến họ và kính nể họ
hơn, và ngày nay thì họ đã đủ sức góp phần mình vào việc bảo toàn và
quảng bá gia tài Đạo Pháp lưu lại từ ngàn xưa.
Các nữ tu sĩ Phật giáo trong xã hội tân tiến ngày nay
Năm
1987 đã đánh dấu một khúc quanh thật lớn đối với những người phụ nữ
Phật giáo, nhất là các nữ tu sĩ. Trong năm này lần thứ nhất họ được vinh
dự tham gia hội nghị quốc tế Sakyadhita của những người phụ nữ Phật
giáo, hội nghị này chưa bao giờ được tổ chức trước đó. Chủ tâm lo cho
người nữ tu sĩ quả là cả một điều sáng suốt, nói lên sự ý thức của mình
trước các khó khăn và tình trạng kỳ thị nam nữ mà họ đang phải đương đầu
ngày nay. Các nữ tu sĩ tại nhiều nước trên thế giới bị bỏ quên, không
đủ ăn, không được chăm sóc sức khỏe và học hành. Các đòi hỏi về giáo dục
thật hết sức khẩn thiết đã khiến nhiều nữ tu sĩ tham dự đại hội đề nghị
phải đặt giáo dục lên hàng đầu trong các sinh hoạt của hiệp hội
Sakyadhita, một tổ chức quốc tế hoàn toàn mới mẻ của những người phụ nữ
Phật giáo. Bài diễn văn của Đức Đạt-lai Lạt-ma trước đại hội đã mang lại
một vinh dự to lớn cho toàn thể những người phụ nữ Phật giáo, và sự
nhấn mạnh của Ngài về tầm quan trọng của giáo dục cũng đã mang lại thật
nhiều khích lệ cho họ. Hội nghị lần đầu tiên trên đây của hiệp hội
Sakyadhita đã mang lại cho người phụ nữ Phật giáo thật nhiều hăng say,
thúc dục họ tham gia vào các công tác cải thiện thân phận của người phụ
nữ, nhất là đối với các nữ tu sĩ, dù thuộc tông phái Phật giáo nào. Chủ
đích quan trọng nhất của tổ chức Sakyadhita là giúp người phụ nữ Phật
giáo trên toàn thế giới được học hành ở các cấp bậc cao nhất, được thụ
phong và ý thức được các lý tưởng cao đẹp của Phật giáo (ni sư Karma
Lekshe Tsomo tác giả bài viết này, là tiến sĩ triết học, giáo sư của một
đại học Mỹ, một người rất nổi tiếng, thế nhưng không phải vì thế mà bà
chỉ biết say sưa về những điều vinh dự đó, mà chỉ biết xả thân vì tất cả
những người phụ nữ khác trên toàn thế giới. Thiết nghĩ những người phụ
nữ - dù là tại gia hay khoác chiếc áo của người tu hành - hãy nên nhìn
vào bà như một tấm gương để ý thức về bổn phận mình và thân phận của
người phụ nữ trong xã hội ngày nay)
Từ năm 1987 đến nay nhiều cơ chế và chương trình giúp đỡ
các nữ tu sĩ Phật giáo đã được khởi xướng. Một mạng lưới quốc tế của
những người phụ nữ Phât giáo đã được thiết lập nhờ một số chùa chiền mới
được thành lập, các trung tâm ẩn cư cũng như các chương trình nghiên
cứu đã mang lại nhiều thuận lợi góp phần vào việc trao đổi các kinh
nghiệm hiểu biết cũng như các nguồn tài lực và nhân lực. Các mạnh thường
quân tại các nước có nền kinh tế phát triển, nhất là các nữ tu sĩ Đài
Loan và các nước khác đã đứng ra giúp đỡ phụ nữ tại các nước đang phát
triển, chẳng hạn như thiết lập các chương trình xóa nạn mù chữ, xây cất
trường học, các trung tâm dạy thiền, các nhà tạm trú cho phụ nữ, bệnh
viện và cô nhi viện. Các nữ tu sĩ tại các nước chưa có truyền thống thụ
phong toàn vẹn cho người phụ nữ, cũng đã bắt đầu nhờ các nữ tu sĩ Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam thụ phong tỳ kheo ni cho họ (thụ
phong chỉ là một nghi thức thế nhưng hết sức quan trọng, bởi vì nếu "tự
do" thụ phong không cần đến một sự chứng nhận nào cả, thì khó tránh
khỏi xảy ra đủ mọi hình thức "lạm phát", "lợi dụng" và "lường gạt").
Từ năm 1988 đến nay đã có khoảng năm trăm nữ tu sĩ Tích Lan đã được các
nữ tu sĩ Triều Tiên và Đài Loan thụ phong toàn vẹn cho họ, và cũng nhờ
đó Tăng đoàn Tỳ kheo ni trên đảo Tích Lan đã được tái lập lại. Nhiều nữ
tu sĩ Thái Lan, Inđônêxia và các nước Tây Phương cũng đã được thụ phong
bằng cách này.
Nhìn về tương lai
Trên dòng lịch sử Phật giáo đã từng xuất hiện nhiều ni sư
lỗi lạc, thế nhưng cuộc đời họ thường bị che khuất bởi bóng dáng của
các nam tu sĩ. Trong các xã hội Phật giáo phụ hệ, người con trai bao giờ
cũng được ưu đãi trong gia đình, nơi trường học (được tiếp tục học cao)
và cả trong chốn chùa chiền, trong khi đó thì người con gái phải tranh
đấu từng miếng ăn, viên thuốc, chiếc ghế nơi trường học và cả quyền được
chọn cho mình cuộc sống trong chốn chùa chiền. Dù may mắn được bước
theo con đường tu hành đi nữa, thì người nữ tu sĩ cũng không hề được
giúp đỡ tận tình, không được học hành chu đáo và cũng chẳng ai đoái hoài
đến họ. Trong vòng hai mươi năm sau này, tình trạng bất bình đẳng giữa
các tu sĩ nam và nữ giới đã khiến nhiều người quan tâm, nhờ đó nhiều
biến cải cũng đã được thực hiện nhằm sửa đổi tình trạng bất bình đẳng
đó.
Các quan niệm đạo đức mới mang tính cách toàn cầu về công
bằng xã hội trong thế giới ngày nay đã khiến tình trạng kỳ thị người
phụ nữ trong các xã hội theo Phật giáo càng hiện ra như một thứ gì đó đi
ngược lại với lý tưởng Phật giáo. Đức Phật thường được xem là biểu
tượng của sự bình đẳng xã hội, và Phật giáo là con đường mở ra tất cả
mọi người, không phân biệt chủng tộc, tầng lớp xã hội hay giới tính. Vì
thế không thể nào có thể lảm ngơ được trước sự nghịch lý giữa lý tưởng
xã hội nêu lên trong giáo lý Phật giáo và tình trạng bất bình đẳng xảy
ra trên thực tế bên trong các xã hội Phật giáo. Nhằm giúp cho Phật giáo
có thể trở thành một động cơ thúc đẩy mang lại một sự biến đổi tích cực
cho xã hội ngày nay, thì trước hết những người Phật giáo phải sửa đổi
tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và cả trong các thể chế, hầu biến
cải thực trạng xã hội phù hợp hơn với giáo huấn Phật giáo. Điều đó đối
với người phụ nữ có nghĩa là được bình đẳng trong lãnh vực học vấn, thụ
phong và học hỏi giáo huấn Phật giáo. Những sự cải tiến đó không phải
chỉ mang tính cách tượng trưng, bề ngoài hay giai đoạn, mà phải toàn
diện và đích thực. Điều đó có nghĩa là ý thức được một cách cư xử khác
hơn đối với người phụ nữ. Nếu muốn nêu lên cho mọi người trông thấy là
người Phật giáo luôn hành động một cách chân thật, và giáo huấn Phật
giáo thừa sức biến cải xã hội, thì người phụ nữ phải có tiếng nói và
quyền hạn được hưởng sự an vui và đạt được sự giác ngộ ngang hàng với
nam giới. Những sự biến cải mà những người phụ nữ Phật giáo đã đạt được
ngày nay trên toàn thế giới thật hết sức khích lệ và cũng là cả một tia
sáng hy vọng soi đường cho những người phụ nữ trong các xã hội khác.
Vài lời ghi chú của người dịch
Ni sư Karma Lekshe Tsomo qua bài viết trên đây đã cho
thấy tầm nhìn thật uyên bác, sâu sắc và thấm đượm lòng từ bi của bà,
không những đối với các nữ tu sĩ Phật giáo mà cả thân phận của người phụ
nữ nói chung trên hành tinh này. Bà kêu gọi các nữ tu sĩ hãy mạnh dạn
đòi quyền bình đẳng với các đồng tu nam giới của mình trên phương diện
học hỏi, cuộc sống trong chốn chùa chiền cũng như ngoài xã hội. Đồng
thời bà cũng kêu gọi tất cả những người Phật giáo nói chung hãy xóa bỏ
tình trạng thiếu công bằng và bất công giữa người phụ nữ và nam giới hầu
tạo ra một xã hội phù hợp hơn với giáo lý Phật giáo.
Do đó, bất cứ một hình thức kỳ thị nào, qua góc nhìn Phật
giáo, đều là kết quả mang lại từ sự nhận định và hiểu biết nhị nguyên
và đối nghịch, tức sai lầm, phản ảnh sự vận hành vô minh của tâm thức
con người. Thật vậy, vô minh luôn tàng ẩn thật kín đáo phía sau từng xúc
cảm, tư duy, tác ý, ngôn từ và hành động của mình mà thường là mình
không hề hay biết. Thế nhưng vô minh lại chính là nguyên nhân sâu xa
nhất và to lớn nhất mang lại những sự tàn phá nguy hiểm nhất cho từng cá
thể, cho xã hội và cả nhân loại. Một trong những sự tàn phá đó là sự kỳ
thị, và một trong những hình thức kỳ thị đó là tình trạng thiếu công
bằng giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội.
Sự bất bình đẳng giữa nam và nữ giới có thể hình dung
dưới hai góc nhìn khác nhau. Góc nhìn thứ nhất liên quan đến "cộng
nghiệp". Chúng ta thường chỉ quan tâm đến "biệt nghiệp" bởi vì "biệt
nghiệp" liên hệ trực tiếp đến "cái tôi" ích kỷ của mình. Nếu muốn trông
thấy cộng nghiệp thì phải có một tầm nhìn thật bao quát. Sinh ra dưới
thể dạng nữ giới là kết quả mang lại từ một thể loại "cộng nghiệp" chung
cho tất cả những người phụ nữ. Đối với người đàn ông cũng vậy, cũng có
một thể loại "cộng nghiệp" đưa đến sự hình thành dưới thể dạng nam giới.
"Cộng nghiệp" liên kết với "biệt nghiệp" khiến tạo ra sự đa dạng và
phức tạp của các cá thể bên trong mỗi giới. Đôi khi một số "biệt nghiệp"
rất mạnh có thể làm biến đổi một số các đặc tính của "cộng nghiệp",
chẳng hạn như có những người phụ nữ khỏe hơn, thông minh hơn nam giới,
có thể sai khiến và chỉ huy nam giới (nói một cách bình dân là "gà mái
đá gà cồ"), hoặc "biệt nghiệp" cũng có thể đưa đến các thể dạng "bất ổn
định" rơi ra ngoài các "quy ước", các đặc tính được "hình dung" hay
"định nghĩa" một cách máy móc cho nam và nữ giới, chẳng hạn như đồng
tính luyến ái hay ái nam ái nữ..., sở dĩ nêu lên chi tiết này là để cho
thấy là "Chủ thuyết Sáng Tạo" mang tính cách cứng nhắc và không có giá
trị gì cả, và chỉ mang lại sự tàn phá mà thôi.
Tóm lại các thể loại "công nghiệp" trực tiếp tạo ra hai
thể dạng nam và nữ đã gián tiếp đưa đến tình trạng bất bình đẳng trong
xã hội giữa hai giới tính ấy. Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng không phải
"cộng nghiệp" chỉ tạo ra sự bất bình đẳng giới tính, mà dưới một số thể
loại hay hình thức khác còn tạo ra sự "bất công" giữa các dân tộc, màu
da, chủng loại, trong các lãnh thổ, quốc gia và lục địa khác nhau. Nếu
sự bất bình đẳng giới tính bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa trong
quá khứ tức là nghiệp, thì quá trình hình thành và diễn tiến của nó xảy
ra như thế nào trong sự vận hành của thế giới ngày nay của chúng ta? Đó
là góc nhìn thứ hai về sự bất bình đẳng giữa nam và nữ giới trên đây.
Nếu muốn tìm hiểu quá trình hình thành của sự "bất bình
đẳng" giới tính đó thì phải ngược về lịch sử tiến hóa của xã hội, văn
hóa và tín ngưỡng của con người nói chung. Người tiền sử trước hết sinh
sống bằng cách nhặt hái, bắt côn trùng và các con thú nhỏ. Họ sống thành
đoàn và sự phân chia giai cấp, thứ bậc chưa có hoặc rất mơ hồ. Khi con
người biết trồng trọt, chăn nuôi, thì cuộc sống định cư cũng dần dần
được tổ chức; làng mạc, các tập thể, bộ tộc được hình thành. Sự phân
chia công việc cũng bắt đầu từ đó. Người phụ nữ trồng trọt, chăn nuôi,
sinh đẻ và nuôi con,.., người đàn ông săn bắt, bảo vệ ranh giới săn bắt.
Các sự tranh chấp bắt đầu hiện ra, đưa đến ẩu đả, lấn chiếm và cướp bóc
lẫn nhau. Qua các cuộc ẩu đả và cướp bóc đó vai trỏ của người đàn ông
trong tập thể trở nên "nổi bật" hơn so với người phụ nữ chỉ biết chăm lo
trồng trọt và nuôi con. Tất cả các hình thức sinh hoạt trên đây của
người tiền sử thật ra cũng chỉ xoay quanh miếng ăn và sự sống còn, phản
ảnh "bản năng sinh tồn" của con người, tương tự như đối với tất cả các sinh vật khác.
Sự tiến hóa sinh học song song với cuộc sống tập thể ngày
càng được tổ chức quy củ hơn, giúp con người trở nên thông minh hơn, và
cũng phức tạp và rắc rối hơn. Xã hội và quốc gia được hình thành. Thế
nhưng phía sau sự thông minh và cuộc sống được tổ chức thật quy mô đó,
bản năng "sinh tồn" vẫn còn nguyên. Việc bảo vệ ranh giới săn bắt và
trồng trọt đưa đến tranh chấp và ẩu đả trước kia thì nay là các cuộc
chiến tranh toàn diện hơn, ranh giới quốc gia liên tục thay đổi trên
dòng lịch sử, sự đồng hóa và diệt chủng diễn tiến không ngừng, thí dụ
điển hình và trước mắt là một quốc gia trên Hy-mã lạp-sơn đã bị xóa mất
trên bản đồ thế giới, và cách nay không lâu là các phong trào lùa bắt
nô lệ và đánh chiếm thuộc địa.
Sự sinh hoạt xã hội trong một quốc gia cần đến những
người quản lý và chỉ huy. Những người săn bắt, ẩu đả bảo vệ gia đình,
làng mạc, bộ tộc trong thời tiền sử trưóc đây nay là các bậc vua chúa,
các nguyên thủ quốc gia, tướng lãnh, sĩ quan trong quân đội. Hầu hết họ
là đàn ông, thật vậy trong lịch sử nhân loại không mấy khi có vua đàn
bà. Trên dòng lịch sử đó, không gian của người đàn bà lúc nào cũng chỉ
là gia đình, gian bếp, rộng lắm là khu vườn hay thửa ruộng. Trong các
nước văn minh ngày nay, dù người đàn bà được tự do và "ra ngoài" nhiều
hơn, thế nhưng thường cũng chỉ là để lái xe đi mua sắm ở siêu thị và đưa
con đi học.
Việc quán xuyến gia đình thật ra đối với người phụ nữ
cũng chỉ là những gì phụ thuộc, bởi vì người phụ nữ còn giữ một vai trò
khác chủ yếu hơn nhiều: đó là sự "tạo giống". Người phụ nữ sinh con đẻ
cái, nuôi nấng, dạy dỗ từng đứa con một. Thời gian thai nghén rất dài,
đứa hài nhi cũng cần thời gian để tập đứng, tập đi và lớn khôn. Xương sọ
của đứa hài nhi khi mới sinh rất mềm và hở (mỏ ác) giúp bộ não tăng
trường, do đó thời gian bú mớm và bồng bế cũng rất dài. Tiếp theo là
giai đoạn ấu thơ và vị thành niên giúp đứa trẻ học hỏi, bắt chước và
phát triển trí thông minh. Các đặc tính này là những gì đặc thù của
giống người và cũng là một gánh nặng trên vai người phụ nữ qua vai trò
"tạo giống". Trong khi đó người đàn ông giữ vai trò "gieo giống", thì
chỉ cần… vài phút là xong. Sự "tạo giống" giam người phụ nữ trong khung
cảnh gia đình; sự "gieo giống" thúc dục người đàn ông tìm đủ mọi cách
gieo giống của mình tối đa và do đó đã mang lại cho họ các xu hướng tạo
ảnh hưởng của mình trong môi trường xã hội. Dầu sao thì sự "phân công"
trên đây cũng thật hết sức thiệt thòi cho người phụ nữ trên đủ mọi
phương diện, và cũng có thể nói là một hình thức "bất công" do thiên
nhiên "tạo ra". Dưới góc nhìn của Phật giáo thì sự "phân công" rất "bất
công" đó cũng chỉ là hậu quả mang lại từ sự vận hành của nghiệp. Thế
nhưng sự "bất công" ấy không những chỉ đơn giản đưa đến tình trạng "bất
bình đẳng" giữa nam và nữ mà còn mang lại thật nhiều những hậu quả khác.
Người đàn bà tay xách nách mang, trở nên kiên nhẫn và chịu đựng hơn, ý
thức được là mình phải yêu thương nhiều hơn. Trong khi đó thì người đàn
ông năng động và chinh phục hơn, hướng vào môi trường bên ngoài nhiều
hơn, thế nhưng đôi khi đấy cũng là cách mà người đàn ông mang lại nhiều
hậu quả vô cùng tại hại, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, trật tự và
đạo đức xã hội và cả lương tâm con người.
Không có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử nhân loại
mà lại không có việc hãm hiếp đi kèm. Trước đây những đứa con lai được
đưa bằng tàu thủy về mẫu quốc, và gần đây hơn là việc xuất cảnh theo
"diện" con lai. Suốt hai đời thống thống liên tiếp của một cường quốc ở
Âu Châu thì hết bà này đến bà nọ, các vị tranh cử Tổng Thống của một
nước khác trên lục địa Mỹ Châu thì dắt vợ ra khoe. Những gì trên đây cho
thấy người phụ nữ dù ở vào vị thế nào cũng đều giữ một vai trò thứ yếu
và lệ thuộc. Các "đức tính" nhẫn nhục, cam phận và chịu đựng của họ đôi
khi còn được gọi một cách trá hình là "tình mẫu tử". Nói chung sự "phân
công" "bất công" đưa đến các hình thức "bất-bình-đẳng" giữa nam và nữ
trên đây bắt nguồn rất sâu xa, từ sự tách biệt - mà Phật giáo và triết
học gọi là nguyên lý nhị nguyên và đối nghịch - phát sinh từ bản năng "truyền giống" của con người và muôn thú.
Tóm lại bản năng "sinh tồn" và "truyền giống" tạo ra
tình trạng bất bình đẳng - nói một cách khác là sự kỳ thị - giữa nam và
nữ trong cộng đồng xã hội và nhân loại. Nếu trở lại với chủ đề đang bàn
thảo là sự bất bình đẳng trong lãnh vực tâm linh, thì có những sự kỳ thị
và bất công như thế nào? Tín ngưỡng và tôn giáo có mang tính cách bản
năng hay không? Nếu có thì "bản năng" ấy có khác biệt giữa nam và nữ hay
không?
Bản năng sinh tồn phát sinh từ những đòi hỏi cấp bách của
cái đói, và bản năng truyền giống từ các tác động và thúc dục của các
kích thích tố dục tính trong cơ thể. Trong khi đó bản năng tín ngưỡng -
có thể gọi một cách tổng quát hơn là bản năng "tâm linh" - thì kín đáo, phức tạp và khó nhận biết hơn so với bản năng "sinh tồn" và "truyền giống".
Trong thời kỳ bán khai và tiền sử, con người rất sợ hãi
trước thiên nhiên (sấm sét, động đất, cháy rừng, đêm tối, lụt lội, mưa
bão... gây ra kinh hoàng và chết chóc nhưng họ lại không biết nguyên
nhân và lý do từ đâu), và các xúc cảm khác bên trong tâm thần (hoang
mang và sợ hãi khi nhận thấy các sự đau đớn, thương tích, bệnh tật và
cái chết). Bản năng "tâm linh" phát sinh từ các sự hoang mang và sợ hãi
đó, nếu nói một cách dễ hiểu, cụ thể và trực tiếp hơn thì đấy là bản năng "sợ chết".
Những sự hoang mang, lo âu và sợ hãi trước cái chết, xuyên qua các xúc
cảm và sự tưởng tượng của con người, đã tạo ra các hình thức "đức tin"
như là một giải pháp trấn an. Thế nhưng đồng thời thì "đức tin" và sự
"trấn an" đó cũng lại làm phát sinh ra các thể dạng nhị nguyên đối
nghịch với nó, tức là những sự sợ hãi khác (trắng đối nghịch với đen,
nếu không có đen thì cũng sẽ không có thể có trắng được; Thượng Đế đối
nghịch với ma quỷ, Thượng Đế cần có ma quỷ để biểu dương sức mạnh của
mình; thiên đường cần có địa ngục, bởi vì nêú không có địa ngục thì
thiên đường không mang một ý nghĩa nào cả; đức tin cần có sự sợ hãi
v.v.). Nếu không muốn sợ hãi ma quỷ, thì phải dựa vào Thượng Đế, nếu
không muốn xuống địa ngục thì phải tưởng tượng ra thiên đường. Do đó ma
quỷ, thần linh, Thượng Đế... hiện ra dưới đủ mọi hình thức và đông vô
kể. Đó là bước đầu của sự hình thành của tín ngưỡng và tôn giáo.
Các sự hoang mang, sợ hãi, đức tin... trong tâm thần, các
sự đau đớn, già nua, bệnh tật trên thân xác, trông thấy cái chết xảy ra
chung quanh là những kinh nghiệm cảm nhận hoàn toàn giống nhau giữa nam
và nữ. Thế nhưng sự bình đẳng "giới tính" đó dần dần bị sự trên trước
có sẵn của người đàn ông trong các lãnh vực thuộc bản năng "sinh tồn" và
"truyền giống" làm cho mất đi. Nếu các sự phân công trong các lãnh vực
"sinh tồn" và "truyền giống" mang lại nhiều thiệt thòi cho người phụ nữ,
thì sự bất-bình-đẳng trên phương diện "tâm linh" gây ra nhiều tệ hại
trầm trọng hơn thế nữa cho họ: đó là sự khinh miệt người phụ nữ xảy ra
trong hầu hết các tín ngưỡng và tôn giáo (chỉ có thể làm ni cô, bà
phước, bà sơ nhưng không thể làm "thầy" hay làm "mẹ" người khác được).
Người đàn ông tạo ra miếng ăn cho gia đình và xã hội (bản
năng sinh tồn), bảo vệ gia đình và lãnh thổ (bản năng truyền giống),
nhưng đồng thời cũng lợi dụng cả bản năng sợ chết (tâm linh) để cũng cố
và làm gia tăng thêm uy quyền và sự trên trước của mình. Trên bình diện
tổng quát thì lịch sử nhân loại cũng chỉ xoay quanh những các khía cạnh
ấy. Lịch sử Âu Châu đơn giản là một sự thống trị và tranh dành quyền lợi
của người đàn ông dựa vào các hình thức cấu kết giữa vương quyền và
thần quyền: vua chúa nhân danh Trời để cai trị. Lịch sử Á Châu cũng
chẳng khá hơn gì, cũng chỉ là sự cai trị của vua chúa tự xưng mình là
con trời (thiên tử) để thống lãnh thiên hạ. Tóm lại bất cứ ai trên hành
tinh này sợ Trời (bản năng sợ chết) thì phải sợ họ (những người đàn ông -
không mấy ai sợ đàn bà).
Thật vậy nếu nhìn thật gần thì Trời, Thượng Đế, Đấng Toàn
Năng, Đấng Sáng Tạo hay Ngọc Hoàng Thượng Đế thì hầu hết toàn là nam
giới, kể cả ma quỷ, thần linh đủ loại. Những người đại diện họ để thống
trị xã hội loài người cũng hầu hết toàn là là nam giới (vua, chúa, tổng
thống, các vị lãnh đạo tinh thần, tướng lãnh, quan tòa, cai ngục, đao
phủ...). Người phụ nữ làm vua duy nhất và nổi tiếng nhất trong lịch sử Á
Châu là bà Vũ Tắc Thiên của Trung Quốc dưới thời nhà Đường, một phụ nữ
vô cùng thông minh, mưu lược và tàn ác, thế nhưng cũng từng bị cạo đầu
và nhốt vào chùa làm ni cô. Nói chung thì trong lịch sử nhân loại, người
phụ nữ cũng chỉ có giá trị như một mảnh sườn của người đàn ông, các ni
cô lục đục trong bếp của nhà chùa, hay đám cung tần mỹ nữ trong hậu
cung, nếu vua "băng hà" và nếu may mắn thì được thả về với cha mẹ, nếu
không thì cũng bị cạo trọc và cho vào chùa. Trong nhiều quốc gia khác
người phụ nữ nếu bị kết án là phù thủy hay ngoại tình thì sẽ bị ném đá
đến chết. Ngày nay vị thế của người phụ nữ tuy có phần cải thiện hơn,
tại các nước phát triển người phụ nữ có số điện thoại riêng để gọi cảnh
sát nếu bị chồng tát tai hay đập chén đĩa. Thật ra số điện thoại ấy
không nói lên một sự bình đẳng nào cả mà chỉ là một cách hiển nhiên cho
thấy vị thế yếu kém của người phụ nữ mà thôi. Dưới mọi hình thức và
trong mọi bối cảnh người đàn ông và xã hội phụ hệ đã đặt người phụ nữ
vào một vị thế thấp kém và bất công.
Thế nhưng nếu nhìn lại thì hóa ra Đức Phật cũng là nam
giới, thế nhưng Ngài là một nam giới đã từ bỏ uy quyền, sự sung túc (bản
năng sinh tồn), từ bỏ vợ con, cung tần mỹ nữ (bản năng truyền giống)
hầu tìm cách vượt lên trên sự già nua, ốm đau và cái chết (bản năng sợ
chết). Sự "dừng lại" (nirodha) đó đã giúp Ngài vượt lên trên tất cả ba
thứ bản năng ấy. Ngài không còn là nam hay nữ, không còn là một hoàng
tử, một người chủ gia đình, một gã ăn mày khất thực từng ngày, cũng
không phải là một vị giáo chủ. Ngài chỉ đơn thuần là Trí Tuệ mà thôi.
Dù rằng giáo huấn của Đức Phật không hề chủ trương sự kỳ
thị giới tính, thế nhưng chính Ngài cũng đành phải chịu thua. Tăng đoàn
nữ giới do Ngài thành lập suy tàn dần. Một vài người phụ nữ hiếm hoi
ngày nay như Tenzin Palmo, Jampa Tsedroen, Karma Lekshe Tsomo..., đứng
lên nêu cao sự bình đẳng nam nữ và kêu gọi các nữ tu sĩ và những người
phụ nữ thế tục hãy mạnh dạn tranh đấu cho sự bình đẳng đó.
Thật vậy cho đến nay xã hội chỉ khai thác một nửa nhân
lực của con người. Một nửa nhân loại mang các phẩm tính thương yêu, nhân
từ, cần cù và độ lượng (đôi khi cũng rất dễ thương) bị hạ thấp giá trị,
phải nhịn nhục, chịu đựng và cam phận. Nếu tất cả những người phụ nữ
được bình đẳng với nam giới, các nữ tu sĩ Phật giáo được kính trọng
ngang hàng với các nam tu sĩ, và tất cả những người phụ nữ của các tín
ngưỡng khác cũng có quyền rửa tội cho người khác - kể cả nam giới - và
có quyền đại diện Thượng Đế nói lên những lời thần khải, với tình thương
yêu và sự tha thứ từ trong đáy tim mềm yếu của mình, thì biết đâu nhân
loại cũng sẽ bớt đi một nửa tội lỗi, gia đình sẽ hạnh phúc gấp đôi, xã
hội sẽ bình đẳng thật sự hơn, con người sẽ ít chém giết nhau và địa cầu
sẽ hòa bình hơn. Mong lắm thay.
Vậy cũng mong rằng những người phụ nữ Phật giáo sau khi
đọc xong bài viết này của ni sư Karma Lekshe Tsomo thì cũng không nên
chỉ biết quay ra tất tả với việc bếp núc, mua sắm quần áo, la rầy con
cái, xem phim Hàn Quốc và hát karaoke..., mà phải ý thức được trọng
trách của mình trước hoàn cảnh và thân phận của những người phụ nữ khác
trên quê hương mình và cả những nơi khác trên toàn thế giới, đang bị chà
đạp, khinh thường và ngược đãi, và biết đâu trong số họ có cả chính
mình?
Bures-Sur-Yvette, 03.03.16
Hoang Phong chuyển ngữ
Độc gỉả có thể tìm hiểu thêm về hiệp hội Sakyadhita và các phong trào
phụ nữ trên thế giới ngày nay trên trang mạng: www.sakyadhita.org.
thuvienhoasen.org
Sách đọc thêm:
Sid Brown, (The Journey of One Buddhist Nun: Even Against the Wind/Hành trình của một Nữ tu sĩ Phật giáo: trước những luồng gió ngược chiều). Albany, NY: State University of New York Press, 2001.
Kim Gutschow, Being a Buddhist Nun: The Struggle for Enlightenment in the Himalayas/Thân phận một nữ tu sĩ Phật giáo: Tranh đấu để đạt giác ngộ trong rặng Hy-mã Lạp-sơn. Harvard University Press, 2004.
Ayya Khema, I Give You My Life : The Autobiography of a Western Buddhist Nun/Xin hiến dâng cả cuộc đời tôi cho các bạn: Hồi ký của một ni sư Tây Phương trong rặng Hy-mã Lạp-sơn. Boston: Shambhala, 1998.
Karma Lekshe Tsomo, Buddhist Women Across Cultures: Realizations/Người Phụ nữ Phật giáo qua các nền Văn hóa khác nhau. Albany, N.Y.: State University of New York Press, 1999.
Karma Lekshe Tsomo, Buddhist Women and Social Justice: Ideals, Challenges, and Achievements/Người phụ nữ Phật giáo và công bằng xã hội: Lý tưởng, Thách thức và Thành đạt . Albany, N.Y.: State University of New York Press, 2004.
Karma Lekshe Tsomo, Sakyadhita: Daughters of the Buddha/Sakyadhita: Những người con gái của Đức Phật. Snow Lion Publications, 1988.
No comments :
Post a Comment