Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt
cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết…Độ
ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
Có một bài kinh thuộc Trung bộ mang tựa đề Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ được hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp-cô-độc[1]. Tương đương với bản kinh này trong Hán tạng, thuộc bộ Tăng-nhất-A-hàm, cũng được hòa thượng Thích Nhất Hạnh dịch là kinh Độ người hấp hối[2].
Thực ra, trong bộ Tăng-nhất-A-hàm, bản kinh tương đương kinh Trung bộ này không có tên kinh, mà được các nhà biên tập đại tạng kinh dánh dấu bản kinh theo số thứ tự[3]. Trong kinh Trung-A-hàm, cũng tồn tại một bản kinh tương đương kinh Trung bộ, khi dịch ra tiếng Việt, hòa thượng Tuệ Sỹ giữ nguyên tựa đề là kinh Giáo hóa bệnh (教化病)[4].
Ở đây, theo nguyên tác Pāli hay Hán tạng của bản kinh này, sự gần giống nhau của cụm từ giáo hóa và giáo giới của hai bản dịch nêu trên, có lẽ sát nghĩa với từ vāda, có căn ngữ vad, có nghĩa là nói, giảng thuyết[5].
Cần thấy rằng, trong kinh tạng Nikāya, có rất nhiều bài kinh liên
quan đến việc giáo hóa người đang hấp hối, từ hàng cư sĩ cho đến bậc
xuất gia, và cũng từ đây đã mở ra nhiều phương cách yểm trợ cho người
hấp hối. Do vậy, việc gắn thêm tựa đề Độ người hấp hối đối với một bản kinh trong bộ Tăng-nhất-A-hàm thuộc hệ Hán tạng, tương đương với kinh Ānathapiṇḍikovāda suttaṃ dễ
tạo ra hiểu lầm về giới hạn các giải pháp độ người hấp hối. Điều này sẽ
được chúng tôi làm sáng tỏ hơn trong chuyên khảo dưới đây.
1. Vai trò quan trọng của tâm thanh tịnh lúc cận tử.
1. Vai trò quan trọng của tâm thanh tịnh lúc cận tử.
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều
không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm
tư khi hấp hối. Chính vì vậy, đã có những trường hợp chết với lòng sùng
kính hoan hỷ và cũng có những trường hợp phải từ bỏ xác thân trong tâm
thế đọa đày. Theo kinh Ví dụ tấm vải, Đức Phật dạy rằng, với tâm cấu uế sẽ sanh về cõi ác và cõi lành sẽ mở ra với tâm thanh tịnh, an nhiên[6].
Khảo sát một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận trong kinh tạng
Nikāya, đã cho thấy tâm thế của người lâm tử có liên hệ đặc biệt đối với
nơi sẽ thác sanh về.
Thứ nhất, đó là trường hợp của tôn giả Pukkusāti. Đã từ lâu,
Pukkusāti quy ngưỡng Đức Phật và tự mình xuất gia, tuy chưa chính thức
gặp Ngài, dù chỉ một lần. Nhân một chuyến du hành, cả hai cùng lưu trú
trong căn nhà của người thợ gốm Bhaggava. Tại đây, Pukkusāti lần đầu
tiên hạnh kiến Đức Phật, được nghe Đức Phật thuyết giảng và tôn giả đã
phát tâm cầu thỉnh giới pháp. Trong thời gian đi tìm y bát để như lý tác
pháp thọ giới tỳ-kheo, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống của tôn giả[7]. Đối với trường hợp này, Đức Phật xác chứng rằng Pukkusāti đã chứng đệ tam Thánh quả[8].
Thứ hai, có một phụ nữ nghèo đang rang lúa, biết được tôn giả Kassapa
vừa xuất định sau bảy ngày miên mật thiền tư, bà đã phát tâm cúng dường
phần lúa ít ỏi của mình cho tôn giả. Sau khi dâng cúng xong và hoan hỷ
trở về nhà với thiện sự vừa làm, trên đường đi, tín nữ bất ngờ bị một
con rắn độc cắn chết. Do vì chết trong tín tâm, cộng với thiện sự vừa
làm, nên tín nữ tức khắc sanh lên cõi trời ba mươi ba với tên gọi mới là
thiên nữ Lājā[9].
Thứ ba, thân phụ của tôn giả Soṇa trước đây làm nghề săn bắn, về già
ông bỏ nghiệp sát phát tâm xuất gia và trở thành một vị tỳ-kheo. Khi lâm
chung, những ác nghiệp trong quá khứ diễn ra kinh hoàng làm cho ông sợ
hãi tột độ. Thấy vậy, tôn giả Soṇa đã cho người khiêng cha đến gần một
bảo tháp, cắt những cành hoa rồi yêu cầu cha hướng tâm cúng hoa lên
tượng Phật và cây Bồ-đề. Ngay khi ấy những cảnh tượng kinh hoàng kia
biến mất và sau đó ông được sanh Thiên[10].
Thứ tư, theo kinh Trung bộ, Bà-la-môn Dhānañjāni là một người, vừa ỷ thế vua, bóc lột các Bà-la-môn gia chủ, ỷ thế các Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua[11].
Vị Bà-la-môn này có thiện cảm với tôn giả Sāriputta trong bài thuyết
giảng trước đó, mặc dù chưa phát tâm quy y Tam bảo, nhưng lúc lâm chung,
Bà-la-môn Dhānañjāni đã cho người mời tôn giả Sāriputta đến thăm mình.
Tại tư thất Bà-la-môn Dhānañjāni, tôn giả Sāriputta trầm tư: vị Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới. Vậy ta hãy thuyết giảng con đường cộng trú với Phạm-thiên[12], để ngay đó, Bà-la-môn Dhānañjāni đã mệnh chung và sanh lên Phạm thiên giới[13].
Thứ năm, trong kinh Đại-bát-Niết-bàn, đã ghi nhận rằng, có bốn thánh tích, gọi là Tứ động tâm
(saṃvejanīyāni ṭhānāni cattāri), đó là chỗ Như lai đản sanh, là nơi Như
lai chứng Vô thượng Chánh giác, là nơi Như lai thuyết pháp lần đầu tiên
và là nơi Như lai nhập Niết-bàn[14]. Nếu như bất cứ ai, trong
khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ,
thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện
thú, cảnh giới chư Thiên[15]. Đây là một câu điều kiện, với lưu ý quan trọng rằng, trong khi chiêm bái những Thánh tích (Cetiyacārikaṁ āhiṇḍantā)[16], mà từ trần (kālaṁ) với tâm thâm tín hoan hỷ (pasannacittā), thì mới được sanh vào cảnh giới chư Thiên (saggaṃ lokaṃ)[17].
Như vậy, tính chất và sự chuyển vận của tâm thức lúc cận tử có ý
nghĩa quan trọng trong việc thọ sanh. Ngoài năm nguồn tư liệu nêu trên,
thì tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận cũng khẳng định rõ việc này[18].
Ở đây, việc giữ gìn tâm thức cận tử an trú trong chánh pháp, bên cạnh
nỗ lực chủ yếu của chính cá nhân, thì người thân và bằng hữu, tùy theo
hoàn cảnh cụ thể, vẫn có thể trợ duyên, làm cho người lâm tử có một chốn
an nhiên để sanh về. Trong kinh tạng Nikāya đã ghi nhận nhiều trường
hợp, cũng như nhiều cách thức độ người hấp hối.
2. Các phương thức độ người hấp hối
2. Các phương thức độ người hấp hối
Tùy theo nghiệp lực dắt dẫn mà mỗi người có một trạng thái hấp hối
khác nhau. Chúng tôi sẽ khái quát và điểm qua những phương thức độ người
hấp hối tiêu biểu.
2.1. Hóa giải ước nguyện lúc lâm chung.
Với một số người, đôi khi ôm ấp những tâm nguyện mà mãi đến cuối đời
vẫn chưa thể hoàn thành, và tâm nguyện đó bất chợt được thổi bùng lên
trong lúc lâm chung. Trong vai trò yểm trợ người hấp hối, tùy theo từng
loại tâm nguyện, tùy theo hoàn cảnh thực tế, chúng ta tìm cách giúp
người hấp hối tháo gỡ những tâm nguyện này. Tháo gỡ không mang nghĩa đáp
ứng mọi loại tâm nguyện, mà có thể giúp người hấp hối nhận ra những tâm
nguyện tốt thì nên làm, và những tâm nguyện sai thì cần phải buông bỏ.
Trước hết, với người cư sĩ tại gia, do đặc thù của đời sống nên cũng
có lắm ưu tư lúc cuối đời. Câu chuyện vợ giúp chồng tháo gỡ những lo
toan khi bệnh nặng tưởng chừng sắp chết của gia đình Nakula, là một
trường hợp đáng suy gẫm. Đặc thù của đoạn hội thoại này là người vợ giả
định những ưu tư của chồng, và cũng tự mình đưa ra hướng giải quyết. Xin
lược nêu câu chuyện an ủi đó như sau:
1. Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa"
1. Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, không có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa"
- Thưa gia chủ, tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu. Thưa
gia chủ, sau khi gia chủ mệnh chung, tôi có thể nuôi dưỡng các con và
duy trì nhà cửa.2. Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ đi đến một gia đình khác"
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, gia chủ
cũng đã biết, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã
sống thực hành Phạm hạnh như thế nào.3. Thưa gia
chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau
khi ta mệnh chung, sẽ không còn muốn yết kiến Thế Tôn, sẽ không còn muốn
yết kiến chúng Tăng"
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Sau khi gia chủ mệnh
chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng
Tăng nhiều hơn.4. Thưa gia chủ, gia chủ có thể suy
nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula, sau khi ta mệnh chung, sẽ
không giữ giới một cách đầy đủ"
- Thưa gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa gia chủ, cho
đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn chứng
được nội tâm tịnh chỉ, tôi sẽ là một trong những vị ấy.5. Thưa
gia chủ, gia chủ có thể suy nghĩ như sau: "Nữ gia chủ, mẹ của Nakula,
trong Pháp và Luật này không đạt được thể nhập, không đạt được an trú,
không đạt được thoải mái, không vượt khỏi nghi hoặc, không rời được do
dự, không đạt được vô úy, còn phải nhờ người khác sống trong lời dạy đức
Bổn Sư".
- Thưa Gia chủ, chớ có suy nghĩ như vậy! Thưa Gia chủ, cho đến
khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn, trong Pháp và
Luật này đạt được thể nhập, đạt được an trú, đạt được thoải mái, vượt
khỏi nghi hoặc, rời được do dự, đạt được vô úy, không phải nhờ người
khác sống trong lời dạy đức Bổn Sư, tôi sẽ là một trong những người ấy[19].
Sau những lời động viên, an ủi chuyên chở chất liệu từ mẫn của người phối ngẫu, đặc biệt là bảy lần nhắc lại lời Đức Phật: Thế Tôn quở trách người khi mệnh chung còn mong cầu ái luyến,
cha của Nakula đã bất ngờ lành bệnh và vượt qua cái chết. Khi biết được
câu chuyện này, Đức Phật đã tán thán Nakulamātā, xem bà là một trong
mười nữ đệ tử tại gia nói chuyện thân mật một cách tối thắng[20].
Trong những trường hợp khác, người yểm trợ cùng tùy theo ước nguyện của người lâm chung để an ủi. Chẳng hạn như:
- Nếu vị ấy nói: "Tôi còn có lòng thương nhớ cha mẹ", thời nên
nói với vị ấy như sau: "Thưa Tôn giả, Tôn giả thế nào cũng phải chết.
Dầu Tôn giả có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả
không có lòng thương nhớ cha mẹ, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là
Tôn giả hãy từ bỏ lòng thương nhớ đối với cha mẹ của Tôn giả".
- Nếu vị ấy nói: "Tôi có lòng thương nhớ vợ con", thời vị ấy
cần phải được nói như sau: "Tôn giả thế nào cũng chết. Dầu Tôn giả có
lòng thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Dầu Tôn giả không có lòng
thương nhớ vợ con, Tôn giả cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là Tôn giả hãy từ
bỏ lòng thương nhớ đối với vợ con của Tôn giả".[21]
Từ những trường hợp cụ thể này, liên hệ đến hoàn cảnh thực tế của
người cư sĩ thời nay, chúng ta có thể linh động về phương diện nội dung,
nhằm hóa giải ưu tư của người sắp mất một cách hiệu quả nhất.
Với người xuất gia, đành rằng không có những lo toan như thế tục,
nhưng đôi khi cũng có những tâm nguyện vi tế, và chúng đã tồn tại ngay
cả lúc lâm chung. Đoạn hội thoại trong kinh Tương Ưng (S.iii,119), giữa Đức Phật và tỳ-kheo Vakkali đang hấp hối, tiêu biểu cho trường hợp này:
- Này Vakkali, ông có gì phân vân, hối hận không?
- Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều phân vân, có nhiều hối hận!
- Này Vakkali, ông có gì tự trách mình về giới luật không?
- Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.
- Này Vakkali, nếu ông không có gì tự trách mình về giới luật, vậy ông có gì phân vân, có gì hối hận?
-- Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.
- Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi
hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người
ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Đang thấy Ta, là
thấy Pháp[22].
Từ câu chuyện trên đã cho thấy, Đức Phật luôn quan tâm và lắng nghe
tâm nguyện của chúng sanh nói chung lúc cuối đời. Trong trường hợp
tỳ-kheo Vakkali, Đức Phật đã chỉ ra tâm nguyện đó vẫn còn vương mùi tục
lụy, và Ngài đã trang bị một nhận thức mới cho tỳ-kheo Vakkali.
Có thể nói, quan tâm đến tâm nguyện lúc cuối đời của người hấp hối là
một phương cách sống đượm tính nhân văn, làm cho đời sống không có
nhiều dư tàn sau khi quá vãng. Tùy theo từng loại tâm nguyện lúc cuối
đời của từng người mà định hình nên những phẩm tính giá trị của đời
sống. Ngay như triết gia Socrates (470-399 B.C), sau khi uống ly thuốc
độc của thể chế dân chủ Athena, trước thời khắc biệt ly, còn dặn dò học
trò hãy thay thầy trả dùm con gà trống mà mình còn nợ Aesculapius[22].
Trong các loại tâm nguyện của người sắp mất, việc nhận ra đâu là tâm
nguyện chính đáng và ngược lại, đòi hỏi người yểm trợ phải có một tuệ
giác nhất định. Mức độ tuệ giác của người yểm trợ đôi khi góp phần quyết
định sự đọa lạc hay thăng hoa cho người hấp hối.
Như vậy, việc tháo gỡ hợp lý những tâm nguyện lúc cuối đời của người
hấp hối, là một trong những giải pháp trợ tử mang tính nhân văn, mà
chính bản thân Đức Phật đã từng thực hiện.
2.2. Trang bị nhận thức về Tứ bất hoại tín và Tam pháp ấn.
Thân vương Mahānāma là người khơi mở nhiều nhân duyên để Đức Phật có nhiều bài pháp quan trọng dành cho hàng cư sĩ[24].
Ông có nhiều trăn trở gắn với đời sống thực tế của người tại gia mà mỗi
khi gặp Phật, ông đều đem ra thưa hỏi. Câu hỏi dưới đây của ông là một
trong những minh chứng đó:
- Bạch Thế Tôn, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cần phải được một cư sĩ có trí giáo giới như thế nào?
Từ câu hỏi này, Đức Phật đã chỉ dạy một phương pháp quan trọng có thể sử dụng độ người hấp hối:
Này Mahānāma, một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh,
cần phải được an ủi với bốn pháp an ủi như sau (assāsaniya dhamma):
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối
với đức Phật: "Đây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn".
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của Tôn giả đối
với Pháp: “Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả
tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu”.
Tôn giả hãy yên tâm, với lòng tịnh tín bất động của của Tôn giả
đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn
chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng
đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng,
đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời"
Tôn giả hãy yên tâm, với các giới của Tôn giả được các bậc Thánh
ái kính không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị
uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp
thủ, đưa đến Thiền định.
Một cư sĩ có trí bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, này Mahānāma,
phải được một cư sĩ có trí giáo giới với bốn pháp an ủi này. Cần phải
nói như vậy.[25]
Bốn pháp này còn được gọi là Tứ bất hoại tín (bốn niềm tin bất hoại), Tứ chủng chứng tịnh
(bốn niềm tin trong sạch tuyệt đối: cattaro aveccappasādā), tức là tin
Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Giới. Thành tựu được bốn pháp này, người
hấp hối sẽ không bị đọa lạc, chứng quả Dự lưu và sẽ thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn[26].
Thông thường, tứ bất hoại tín do tha nhân thuyết giảng cho người lâm
chung, tuy nhiên, đối với cư sĩ Citta là một trường hợp đặc biệt.
Theo kinh Tương Ưng (S.iv, 302), trong thời khắc mệnh chung, cư sĩ Citta được chư Thiên vây quanh trợ niệm, đó là các vị chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng[27]. Cuộc trao đổi giữa các vị chư Thiên và cư sĩ Citta rất mực kỳ thú:
- Này gia chủ, hãy nguyện: 'Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương'". Cho nên tôi (Citta – người viết chú) mới trả lời với họ: 'Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua'"[28].
Sau đó, mặc dù nằm trên giường bệnh, nhưng trước yêu cầu của đông đảo
chư Thiên và bà con thân quyến, cư sĩ Citta đã giảng về niềm tin vững
chắc vào ba ngôi Tam-bảo và sau đó còn căn dặn: Tất cả những gì có thể đem cho trong gia tộc, tất cả phải đem cúng dường, phân phát cho những vị trì giới và có thiện tánh[29]. Khi
gia chủ Citta khiến cho các bạn bè thân hữu, các bà con huyết thống có
tịnh tín đối với đức Phật, đối với Pháp, đối với chúng Tăng và khuyên họ
bố thí, vị ấy liền mệnh chung[30].
Từ đây có thể thấy, mặc dù đang hấp hối, nhưng trước cầu thỉnh của
chư Thiên và thân quyến, cư sĩ Citta vẫn nỗ lực thuyết bài pháp cuối
cùng. Chính vì vậy, cư sĩ Citta được Đức Phật tán thán là một trong mười
vị nam cư sĩ tối thắng, với mỹ hiệu: thuyết pháp tối thắng[31].
Trong đời sống ngày nay, để đạt được niềm tin bất động đối với Tam
bảo và thánh giới là điều rất khó. Tuy nhiên, từ lời dạy của Đức Phật,
từ gương sáng của các vị cư sĩ tối thắng nêu trên, chúng ta có thể vận
dụng bằng nhiều cách để người hấp hối hoàn thiện, cũng cố phẩm chất đạo
đức cơ bản của mình (ngũ giới, bồ-tát giới, tỳ-kheo giới…), và giữ vững
niềm tin Tam bảo đến mức cao nhất có thể. Trong thực tế hiện nay, nội
dung tương tự vẫn được các truyền thống Phật giáo vận dụng trợ niệm cho
người hấp hối, nhưng mang nhiều biến tấu khác biệt so với kinh văn.
Bên cạnh việc cũng cố và trang bị cho người hấp hối Tứ bất hoại tín; trong nhiều trường hợp, Đức Phật còn triển khai nội dung Tam pháp ấn khi ai đó đang lâm chung.
Kinh Tương Ưng (S.iv, 46) ghi, có một vị tỳ kheo bị trọng bệnh, ít người biết đến, được Đức Phật quang lâm vấn bệnh. Ngài hỏi:
Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn...
- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu
quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã
của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn thuyết như vậy, Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn
dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỷ-kheo ấy khởi lên pháp
nhãn ly trần vô cấu: "Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn
diệt"[32].
Có thể thấy, nội dung giáo giới cho vị tỳ-kheo đang lâm bệnh nặng trong đoạn kinh trên chính là Tam pháp ấn. Nhận thức đầy đủ về Tam pháp ấn
giúp cho người hấp hối không còn tham lam hay chấp thủ về thân. Vì càng
ít luyến ái thì càng vơi chấp thủ. Mức độ giải thoát của mỗi chúng sanh
chủ yếu căn cứ vào hai tiêu chí này. Theo khảo sát, Tam pháp ấn được trình bày sinh động và đầy đủ nhất trong bài kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Suttaṃ). Đây là bài pháp thứ hai mà Đức Phật thuyết giảng cho năm anh em Kiều-trần-như sau khi thành đạo[33].
Từ cơ sở này cho thấy, trong việc yểm trợ cho người hấp hối thì có thể khai triển giáo nghĩa Tứ bất hoại tín hay Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng nhiều lần. Sau khi đối khảo nhiều bản dịch khác nhau, chúng tôi cho rằng bản dịch kinh Vô ngã tướng theo dạng thi kệ (gātha) trong Nghi thức tụng niệm của hệ phái Phật giáo khất sĩ Việt Nam, rất phù hợp trong việc trợ duyên cho người hấp hối[34].
2.3 Vài phương cách trợ tử không thông dụng.
Không chấp thủ (na upādiyissāmi)[35]
Đại thương gia Anāthapiṇḍika là người trưởng thành và tắm gội trong
Phật pháp, có đến 18 bản kinh được ghi nhận liên quan đến ông[36]. Khi lâm chung, ông được ngài Sāriputta thuyết giảng bằng một bài pháp có nội dung sâu sắc.
Bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta mang tên Anāthapiṇḍikovāda suttaṃ, được hòa thượng Thích Minh Châu dịch là kinh Giáo giới Cấp-cô-độc, là kinh số 143, thuộc Trung bộ.
Do vì thương gia Anāthapiṇḍika đã thành tựu quả vị Dự lưu trong cuộc hội kiến với Đức Phật ở thành Rajaghaha[37],
chính vì vậy bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta dành cho
Anāthapiṇḍika khi ông lâm chung, chỉ tập trung vào một vấn đề quan trọng
duy nhất, đó chính là quan điểm không chấp thủ (na upādiyissāmi). Suốt cả bài kinh, cụm từ không chấp thủ được nhắc đến 48 lần.
Theo kinh, sau khi thăm hỏi tình trạng bệnh tình, tôn giả Sāriputta
lần lượt khuyên bảo Anāthapiṇḍika không nên chấp thủ sáu căn, sáu trần,
sáu thức…cho đến không nên chấp thủ ngũ đại, tứ thiền, cả thế giới này
hay thế giới khác. Bài thuyết giảng của tôn giả Sāriputta xoay quanh chủ
điểm chính là không chấp thủ (na upādiyissāmi), với những dẫn dắt và liên hệ sinh động.
Sau khi nghe xong bài thuyết pháp, thương gia Anāthapiṇḍika đã ngạc nhiên thưa với tôn giả Sāriputta:
- Dầu cho bậc Đạo sư được con hầu hạ đã lâu và dầu con đã từng gần
gũi các vị Tỷ-kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời
thuyết pháp như vậy.
- Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc
áo trắng. Này cư sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.
- Vậy thưa Tôn giả Sāriputta, hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư
sĩ mặc áo trắng. Thưa Tôn giả Sāriputta, có những thiện gia nam tử sanh
ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc;
nhưng nếu được nghe, họ có thể biết được (Chánh) pháp[38].
Quả đúng như tôn giả Sāriputta đã nói, quan điểm không chấp thủ được Đức Phật dạy cho tỳ-kheo vô danh khi vị ấy lâm bệnh. Kinh Tương Ưng (S.iv, 47) ghi:
Này Tỷ-kheo, nếu ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ.
- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông
hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ[39].
Quan điểm không chấp thủ còn được Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh trong
trường hợp lâm chung hết sức đặc dị của tôn giả Channa, do vì bệnh tật
quá đau đớn nên tôn giả đã dùng dao tự sát. Ngài Sāriputta nghi vấn về
sanh thú và đời sau của tôn giả Channa, nên được Đức Phật giải thích:
Này Sāriputta, với sự việc như vậy, Ta không nói Channa là có lỗi.
Này Sāriputta, ai bỏ thân này và chấp thủ thân khác; người ấy, Ta nói
là có lỗi. Nhưng Tỷ-kheo Channa thời không vậy[40]. Sở dĩ Đức Phật khẳng định như vậy vì trước đó, tôn giả Channa đã thành tựu tuệ tri: Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi[41].
Việc nỗ lực tu tập để thành tựu tâm không chấp thủ (na upādiyissāmi)
mang một ý nghĩa quan trọng lúc còn sống và ngay cả khi hấp hối. Vì khi
chấp thủ bị bẻ gãy, thì chuỗi 12 nhân duyên sẽ rời ra, và người hấp hối
sẽ chạm ngõ giải thoát.
Sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme)
Cư sĩ Dīghāvu là một người thân cận Tam bảo, đã đắc quả Dự lưu. Khi
bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, ông đã nhờ cha tên là Jotika đến
tinh xá Trúc-lâm cầu thỉnh Đức Phật quang lâm tư gia vì lòng từ mẫn.
Sau khi thăm hỏi bệnh tình, Đức Phật trùng tuyên Tứ bất hoại tín mặc dù cư sĩ Dighāvu đã thành tựu trước đó. Sau đây, Đức Phật dạy thêm:
- Do vậy, này Dīghāvu, sau khi ông đã an trú trong bốn Dự lưu phần
này, ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (cha vijjā bhāgiye dhamme).
- Ở đây, này Dīghāvu, ông hãy trú, quán vô thường trong tất cả
hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán
tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt[42].
Sáu minh phần pháp này có thể tìm thấy rải rác trong kinh Tăng Chi, từ chương 6 pháp đến chương 9 pháp. Trong kinh Phúng tụng số 33, thuộc Trường Bộ, sáu minh phần pháp này còn được gọi là Sáu
quyết trạch phần tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô
ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng[43].
Sáu minh phần pháp này là pháp tu bậc cao, phần lớn chỉ dành cho giới
xuất gia hoặc bậc thượng căn thượng trí. Chỉ xét riêng minh thứ nhất,
tức quán vô thường trong tất cả hành, đã cho thấy điều này:
Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào thấy bất cứ hành nào là vô
thường, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra.
Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự
kiện này có xảy ra. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự
lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra[44].
Ở đây, riêng trong trường hợp Đức Phật dạy cho cư sĩ Dīghāvu sáu
minh phần pháp (cha vijjà bhàgiye dhamme), vì ông ta là một trong những
đệ tử tại gia có căn tánh thông tuệ, được Đức Phật xác tín:
Hiền minh, này các Tỷ-kheo, là cư sĩ Dīghāvu! Cư sĩ Dīghāvu thực
hiện các pháp và tùy pháp, không làm phiền nhiễu Ta với những kiện tụng
về pháp. Cư sĩ Dīghāvu, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa
sanh nhập diệt ở tại đấy, không còn trở lui thế giới này nữa[45].
Từ trường hợp lâm chung của thương gia Anāthapiṇḍika và cư sĩ
Dīghāvu, đã xác tín rằng, thời Phật tại thế, có nhiều cư sĩ tại gia với
căn cơ ưu thắng. Không những vậy, căn cứ vào nội dung thuyết giảng dành
cho hai vị cư sĩ đặc biệt này đã cho thấy, đây là những pháp tu tập bậc
cao, không thể dễ dàng vận dụng trợ niệm cho số đông quần chúng.
3. Kết luận.
3. Kết luận.
Theo quan điểm Phật giáo, nghiệp có thể thay đổi. Dù chỉ thay đổi
nghiệp lực một chút nhỏ nhoi, nhưng theo chiều hướng tích cực, thì người
đệ tử Phật vẫn nỗ lực thực hành. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật đã khích lệ việc này[46]. Việc độ người hấp hối tuy chỉ mang tính trợ duyên nhưng cũng nằm trong ý nghĩa đó.
Theo tư liệu đã dẫn, việc độ người hấp hối đúng với nghĩa đen của cụm
từ này. Tức là những hoạt động trợ niệm diễn ra khi người ấy còn sống,
khi các chỉ số sinh tồn (vital signs) còn được ghi nhận, khi người lâm tử còn có ý thức phản hồi. Kinh văn Nikāya không ghi nhận hoạt động trợ niệm sau khi chết.
Từ những khảo sát ở trên cho thấy, có năm nội dung cơ bản trong việc
trợ duyên cho người hấp hối. Thứ nhất, lắng nghe, an ủi và tháo gỡ tâm
tư của người sắp chết. Thứ hai, trùng tuyên những giới luật mà người sắp
chết đã thọ, cũng cố những sút kém về giới luật, nếu có, bằng các hình
thức sám hối[47]. Thứ ba, định hướng người sắp mất vững niềm tin Tam bảo. Thứ tư, triển khai giáo nghĩa Tam pháp ấn, hoặc trì tụng bài kinh Vô ngã tướng
nhiều lần. Thứ năm, bằng những dẫn dụ cụ thể, khuyên người hấp hối từ
bỏ luyến ái và chấp thủ. Đây là những phương cách độ người hấp hối được
ghi nhận từ kinh tạng Nikāya.
Độ người hấp hối tuy chỉ là phương cách mang tính trợ duyên, nhưng do
chuyên chở chất liệu thương yêu, nên đã tạo ra những giá trị đặc thù của
Phật giáo.
Thích Chúc Phú
[1] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.601-606.
[2] http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-do-nguoi-hap-hoi
[3]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十九, 非常品, 八.
[4] Kinh Trung A Hàm, tập 1, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB. Phương Đông, 2009, tr. 263-279.
[5] M.Monier-Williams. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014. p.939.
[6] Nguyên văn: Cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế…Cõi thiện chờ đợi một tâm không cấu uế. Xem, Kinh Trung Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.61.
[7] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 588.
[8] Ibid.
[9] Tích truyện Pháp cú, tập 2, Viên Chiếu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.135-137
[10] Pa-Auk Tawya Sayadaw. The Workings of Kamma. Helicon Publishing and Penguin Books Ltd: 1996, p.196.
[11] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.225.
[12] Con đường cộng trú với Phạm-thiên là phải hoàn thiện bốn phẩm chất cao quý: Từ, Bi, Hỷ và Xả. Ibid, tr. 234
[13] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 235
[14] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 328.
[15] Ibid.
[16] Tỳ-kheo Thanissaro dịch cụm từ này là: on such a pilgrimage. Tác giả Maurice Walshe dịch là: while making the pilgrimage. Cf: The Long Discourses of the Buddha -Maha-parinibbana sutta. trans. Maurice Walshe. Boston: Wisdom Publications, 1995. p.264.
[17]
Có ba yếu tố hiện diện đầy đủ mới được sanh thiên giới. Thứ nhất là
trong khi chiêm bái thánh tích, thứ hai là với tâm thâm tín cao độ và
thứ ba chết trong khi đang chiêm bái. Vì lẽ, nếu như chiêm bái thánh
tích, nhưng trong tâm không khởi lòng thâm tín, dù có chết tại chỗ ấy
thì cũng không thể sanh thiên. Trong một trường hợp khác, đã từng chiêm
bái thánh tích và đã khởi tín tâm ngay khi đó, nhưng khi lâm chung mà
tâm tư tán loạn, thì cũng không thể sanh thiên.
[18] Theo thắng pháp tập yếu luận, HT. Thích Minh Châu dịch và giải, chương năm, nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng; thì: Gatinimitta
(Thú tướng) là một hình tướng gì của cảnh giới mà người ấy sắp được tái
sanh, một sự kiện luôn luôn xảy ra với người sắp chết. Nếu là một hình
tướng không tốt đẹp, thời có thể thay đổi chúng bằng cách ảnh hưởng đến
tư tưởng của người sắp chết, và như vậy thiện niệm của người ấy biến
thành cận tử và thay thế cho sanh nghiệp của người ấy.
[19] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 43-45.
[20] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.63.
[21] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 771-772.
[22] Ibid, tr. 743-744.
[23] The Phaedo of Plato. Harold Williamson, B.A Ed. New Yord: The Macmillan Company, 1904. p. 245. Cf: Pay a cock to Aesculapius.
[24] Nhờ ông, Đức Phật đã định nghĩa thế nào là cư sĩ: Bạch
Thế Tôn, cho đến như thế nào là người cư sĩ? - Này Mahānāma, khi nào
quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy, này Mahānāma,
là người cư sĩ. Xem, Kinh Tăng Chi Bộ, tập 3, chương 8 pháp, phẩm Gia chủ, kinh Thích tử Mahānāma, VNCPHVN, 1996, tr. 584.
[25] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 771
[26] Ibid, tr. 744.
[27] Ibid, tr. 353.
[28] Ibid, tr. 354
[29]
Quan điểm chia sẽ vật dụng của người hấp hối, hoặc vì người hấp hối bố
thí tài sản thường xuất hiện trong kinh điển Bắc truyền. Đây là trường
hợp hiếm hoi xuất hiện trong kinh tạng Nikāya.
[30] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 354 .
[31] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.62.
[32] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 143.
[33] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.694-696.
[34] http://daophatkhatsi.vn/giao-phap-khat-si/kinh-tung/2841-kinh-vo-nga-tuong.html
[35] http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/MN_III_utf8.html#pts.258
[36] Nyanaponika Thera & Hellmuth Hecker. Great Disciple of the Buddha. Bhikkhu Bodhi, Edited. Boston: Wisdom Publications, 2003. p. 360
[37] Cullavagga, chương Sàng tọa thứ 6, tụng phẩm thứ nhì, câu 250. Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên dịch.
[38] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.604-605
[39] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.143-144.
[40] Ibid, tr. 153
[41] Ibid, tr. 152.
[42] Ibid, tr.724.
[43] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 674.
[44] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.164.
[45] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.724.
[46] Nguyên văn: Chớ
chê khinh điều thiện./ Cho rằng "Chưa đến mình”./ Như nước nhỏ từng
giọt./ Rồi bình cũng đầy tràn./ Người trí chứa đầy thiện./ Do chất chứa
dần dần. Xem, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.59.
[47]
Trong tang lễ hiện nay của người xuất gia, có mục Bố-tát, tức tụng
giới. Thực ra, việc tụng giới sẽ có ý nghĩa hơn nếu như người hấp hối
còn nghe được giới pháp. Vì khi ấy, tâm của người hấp hối có khả năng
chuyển biến tích cực và đó là mục tiêu chính của hoạt động trợ niệm.
Trong tang lễ của người tại gia không có mục tụng giới. Theo chúng tôi,
nếu như cư sĩ đó đã từng thọ Tam quy và giữ năm giới, thì cần nên nhắc
lại khi người ấy hấp hối. Trong trường hợp người hấp hối tự nhận giới bị
sút kém, thì nên hướng họ thành tâm sám hối. Ngay như Devadatta, tuy
phạm trọng tội, nhưng nhờ tâm niệm sám hối lúc cuối đời, nên đã mở ra
con đường bước lên Thánh quả.
No comments :
Post a Comment