Ni sư AYYA KHEMA - Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)
Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
Cái thấy nội tại là một kinh nghiệm được thực chứng.
Không có nó, tuệ giác không thể phát sinh. Điều đó đúng đối với những
vấn đề bình thường trong cuộc sống, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về
giáo lý của Đức Phật. Thí dụ, có ai đó không vừa lòng với ta, nếu ta
không tìm hiểu tại sao, thì sự hiểu lầm giữa ta và người đó sẽ không bao
giờ chấm dứt. Ta cần phải nhận rằng hẳn mình đã nói hay làm gì đó khiến
người kia phật lòng. Đây chỉ là vấn đề nhỏ nhưng nó cũng cho thấy ta
cần có sự hiểu biết về kinh nghiệm của mình.
Nếu ta nghĩ rằng những điều đó xảy ra ở bên ngoài, không
dính dáng tới ta, thì ta không thể thay đổi cách hành xử của mình. Pháp
hành có nghĩa là không ngừng chuyển hóa bản thân để đạt đến chỗ hoàn
hảo. Nếu ta không thể chuyển đổi thì hóa ra công lao hoằng pháp của Đức
Phật là vô ích sao?
Nếu ta không hoàn toàn chú tâm đến từng chi tiết, ta sẽ
chẳng bao giờ chuyển hóa đến chỗ tuyệt đối. Chú tâm đến chi tiết là cốt
lõi của chánh niệm. Tuy nhiên, phần đông không được hướng dẫn hoặc không
thực sự thực hành chánh niệm. Hiểu biết qua sách vở là một chuyện, thực
hành lại là chuyện khác. Chánh niệm là cốt lõi của trí tuệ, vì không có
chánh niệm ta sẽ không thể nhìn thấu suốt vấn đề gì.
Theo dõi hơi thở có nghĩa là “biết chính xác”. Chánh
niệm không phán đoán, phân biệt, vẽ vời. Chánh niệm biết khi nào tâm
định, khi nào tâm phóng đi và khi nào nó trở nên bình an. Sự chánh niệm
hoàn hảo biết điều gì đang xảy ra trong từng giây phút.
Khi ta chú tâm đến các cảm xúc, chỉ quan sát chứ không phản ứng lại với chúng, là ta đang hành niệm thứ hai của Tứ niệm xứ, vedananupassana (niệm thọ). Khi ta biết mình đang suy tưởng,cittanupassana (niệm tâm) và khi ta biết nội dung suy tưởng, đó là dhammanupassana (niệm pháp). Nếu không chú tâm, ta không thực sự tỉnh thức. Ta cần luôn thực tập sự chú tâm rõ ràng vào các đối tượng này.
Khi hành thiền tâm có thể trở nên an định. Nếu có cảm
giác an bình, ta phải biết điều đó rõ ràng. Nếu không thể nhận thức điều
gì đang xảy ra, ta không thể tiến xa hơn, vì ta không biết mình đang ở
đâu. Một chi tiết quan trọng của việc hành thiền là biết chính xác điều
gì đang xảy ra, và có thể mô tả lại điều đó sau khi nó xảy ra. Điều mô
tả là kinh nghiệm đã được nếm trải. Nó tự động xảy ra theo sau sự việc.
Điều này đúng đối với bất cứ trạng thái tâm nào hay bất cứ cảm xúc nào.
Pháp là các trải nghiệm của Đức Phật được mô tả lại. Nếu
ta không thể làm thế đối với chính những trải nghiệm của bản thân, là
ta sống trong hệ thống tín ngưỡng, có thể khiến tâm ta mờ mịt. Trong khi
thiền là để làm cho tâm sắc bén. Tâm chánh niệm là chiếc búa đã được
mài, với lưỡi bén, mỏng, nhọn, có thể cắt xuyên qua tất cả mọi vọng
tưởng của ta. Khi ngồi thiền, ta có thể biết các chướng ngại trong tâm:
như là tâm ù lì không biết việc gì đang xảy ra, hay tâm mê, tâm phóng
dật, tâm sân không muốn vâng lời. Đó là chánh niệm về tâm pháp.
Như mọi chúng sanh khác, tâm ta thường phóng dật, luôn
tìm cách tránh khổ và mong cầu hạnh phúc. Điều này thật khó thay đổi.
Nếu ta quán sát thấy mình đang chống lại cái khổ, tìm kiếm điều dễ chịu,
ta phải biết đó chỉ là cách hành xử theo thói quen bình thường. Đó là
cách vận hành của thế giới này, là cách nền kinh tế này hoạt động. Nhưng
bạn có thấy ai thực sự hạnh phúc trong đó không? Đó là một cuộc phiêu
lưu vô vọng, chắc chắn thất bại, vậy mà tất cả mọi người vẫn còn cố gắng
chạy theo. Tất cả đều đã cố gắng đủ lâu rồi, giờ ta có thể buông bỏ, ít
nhất là trong thời gian ngồi thiền.
Ta có thể thoát khổ (dukkha), nhưng không phải
bằng cách loại bỏ các cảm thọ khó chịu, mà chỉ bằng cách loại bỏ các
phản ứng đối với chúng. Đây là cửa chính để bước vào con đường tâm linh.
Nếu ta không hiểu rõ điều này, thì mọi thứ đều thất bại. Chúng ta sẽ
không thoát khỏi sự khó chịu của việc ngồi lâu, của muỗi mòng, hay của
bất cứ khổ thọ nào mà ta gặp phải. Tất cả đều do tâm tạo, do tâm phản
ứng lại. Dukkha (khổ) sẽ biến mất khi các phản ứng của ta biến mất.
Trừ khi ta biết chính mình là người tạo ra cái khổ cho
mình, thì khó thể nào ta thấy Pháp. Chúng ta bắt đầu biết tu khi không
còn đổ lỗi cho hoàn cảnh, tha nhân, thể chế chính trị, kinh tế hay thời
tiết. Chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy các phản ứng của bản thân. Dĩ nhiên các
phản ứng này không phải tất cả đều khả ái, thiện lành ngay. Phải cần có
thời gian. Nhưng ít nhất ta có thể bắt đầu làm gì đó cho bản thân.
Chánh niệm không chỉ cần có mặt trong khi ta hành thiền,
mà cả lúc ta hành động, cảm thọ hay nghĩ suy trong đời sống hàng ngày.
Khi thức, chánh niệm phải là đối tượng chính yếu của ta. Ta phải tự biết
mình. Chỉ khi đó ta mới mong một ngày hiểu được thế giới. Vũ trụ chính
là thân và tâm này. Khi ta biết được thân và tâm này là gì, ta sẽ biết
về vũ trụ và những chân lý tiềm ẩn trong đó. Tất cả rõ ràng đều giống
nhau, nhưng ta phải biết nó là gì.
Khi rời khỏi chiếu thiền, ta phải tỉnh thức nơi mắt
nhìn, thân chuyển động, về tất cả những gì ta đang làm. Tại sao? Trước
hết, điều đó giúp ta không nghĩ ác, không tưởng điều bất thiện. Nó giúp
cho việc hành thiền của ta dễ dàng hơn. Tâm cần được kiểm soát, không
được để nó chạy loanh quanh. Tâm bình thường, không rèn luyện giống như
một con bò hoang dại thả rông trong vườn nhà. Chỉ trong chớp mắt là nó
sẽ phá tan hoang khu vườn. Tâm của ta cũng thế. Nó cũng làm cho thế giới
ta sống trở nên một bãi chiến trường. Không cần phải đọc báo ta mới
biết những điều đó. Chúng có mặt ở khắp nơi, ngay từ tâm ta mà ra. Tất
cả chúng ta đều ở trong đó, trừ các bậc giác ngộ. Tâm hoang dại không
thể thiền. Ta phải bắt nó đứng lại, kiểm soát, ngăn chặn nó. Mỗi khi nó
phóng chạy, ta dùng chánh niệm để bắt nó quay về, giống như huấn luyện
con ngựa hoang, nếu không, nó không làm lợi ích gì cho ai cả. Nhưng khi
đã được thuần hóa, huấn luyện, ngựa sẽ rất lợi ích. Điều này cũng đúng
với tâm biết bao!
Chánh niệm về thân có nghĩa là ta biết tất cả mọi chuyển
động nơi thân. Khi quán sát bản thân, ta sẽ thấy có tâm và thân. Tâm ra
lệnh, và thân tuân hành. Ta cũng nhận thấy rằng đôi khi thân không thể
vâng lời tâm vì nó yếu đuối. Đây là cửa đầu tiên để vào thiền tuệ, khi
biết rằng có thân, tâm và tâm thì quan trọng hơn. Cái khác biệt giữa
người có tu tập và người không là sự thực chứng.
Chánh niệm về các chuyển động của thân cũng liên quan
tới các đối tượng chánh niệm khác. Thí dụ, nếu ta đang lo nghĩ đến tương
lai thì ta không còn để ý đến thân nữa; thay vào đó ta có thể chú tâm
đến quá trình tư duy. Ta biết mình đang nghĩ suy, đang tạo nghiệp. Các
tư tưởng là tâm hành, cũng như nghiệp hành. Chúng ta là chủ nhân của
nghiệp mình. Chúng ta suy nghĩ như thế nào thì chúng ta sẽ là thế ấy. Đó
là một quá trình tự nhiên, không liên quan đến một chủ thể đặc biệt
nào.
Sau đó chúng ta có thể bắt đầu ý thức đến nội dung tư
tưởng của mình, có nghĩa là ta biết chúng thiện hay ác. Ta có thể tập
buông bỏ bất cứ suy nghĩ tiêu cực nào và thay thế nó bằng cái khác. Ngay
đó ta có thể khởi tâm thiền, mà không tách rời khỏi các hoạt động bên
ngoài. Khi đang chú tâm đến hơi thở trong thiền, một ý nghĩ xen ngang,
ta tập buông suy nghĩ, trở về với hơi thở. Ta có thể sử dụng quy cách đó
trong đời sống hàng ngày để buông những suy nghĩ bất thiện. Lúc đó ta
thay thế bằng ý nghĩ thiện, giống như khi đang hành thiền ta thay thế
bằng hơi thở.
Chánh niệm về quá trình tư duy được Đức Phật gọi là “bốn nỗ lực cao thượng” (hay bốn tinh tấn ba-la-mật: 1. Tránh các trạng thái tâm bất thiện, 2. Chế ngự các trạng thái tâm bất thiện, 3. Phát triển các trạng thái tâm thiện, 4. Duy
trì các trạng thái tâm thiện). Chúng là cốt lõi trong quá trình thanh
tịnh. Con đường tâm linh là con đường thanh tịnh, xoay quanh chánh niệm.
“Chỉ có một cách để thanh tịnh hóa chúng sanh, chế ngự khổ, giải thoát
khỏi đau buồn, ưu não, than van, để bước vào con đường cao thượng, để
đạt được Niết-bàn, đó là chánh niệm” (Lời Phật dạy). Sự thanh tịnh hóa
không chỉ mang lại tâm an bình cho một cá nhân, góp phần vào hòa bình
thế giới, mà còn để giúp ta hành thiền.
Niềm hy vọng rằng người ta có thể ngồi xuống gối thiền,
theo dõi hơi thở, rồi tâm trở nên định, là huyễn hoặc. Người ta phải
trang bị tâm để hành thiền. Do đó, ta phải thực hành bốn tinh tấn
ba-la-mật này, không chỉ trong lúc hành thiền, mà cả trong cuộc sống
hàng ngày. Nhờ đó ta sẽ đạt được an tĩnh nội tâm là điều mà ai cũng hoài
vọng, nhưng có mấy ai tìm được.
Tinh tấn đầu tiên là không để cho tư tưởng bất thiện
chưa phát khởi, phát khởi. Muốn làm được điều này chánh niệm phải thật
sắc bén. Một tư tưởng chưa phát khởi, tạo nên những làn sóng đi phía
trước. Để biết được rằng chúng không mang đến lợi ích gì, ta cần nhiều
chú tâm và công phu tu tập.
Tinh tấn thứ hai, không để một tư tưởng bất thiện đã
phát khởi, được duy trì, có thể được thực hiện bởi bất cứ ai có thiện
chí, nếu người đó biết là không có ai khác để đổ lỗi ngoài mình. Ý nghĩ
bất thiện không phải do ngoại vật kích động, mà hoàn toàn do các uế
nhiễm từ bản thân.
Tinh tấn thứ ba là khiến cho tư tưởng thiện, chưa phát
khởi, được phát khởi. Có nghĩa là chúng ta phải liên tục quán sát tâm,
khuyến khích những ý nghĩ tích cực, thiện lành khi chúng chưa có mặt,
ngay cả trong những hoàn cảnh khó xử nhất.
Cuối cùng, tinh tấn thứ tư là làm cho tư tưởng thiện, đã
phát khởi, được duy trì. Trong khi hành thiền, điều đó liên quan đến đề
mục thiền quán của ta. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, đó là phản ứng
của tâm. Nếu ta có chút cảm nhận đối với bản thân, ta có thể cảm thấy
bấn loạn bên trong khi tư tưởng bất thiện phát khởi, cảm giác của sự
chống đối. Tư tưởng bất thiện luôn ở trong tâm ta trong quá nhiều năm
tháng, đến nỗi chúng đã trở thành những phần không thể thiếu trong quá
trình tư duy của ta. Cần phải có chánh niệm và quyết tâm ta mới buông bỏ
được chúng.
Khi hành thiền chúng ta trở nên ý thức rằng các tư tưởng
bất thiện của mình không do ai hay hoàn cảnh bên ngoài tạo ra. Rồi tâm
ta thêm vững mạnh để có thể buông những gì ta không cần, giữ lại hoặc
thay thế bằng những điều hữu ích. Bốn tinh tấn ba-la-mật này là bốn căn
bản của chánh niệm liên quan đến nội dung tư tưởng của ta (niệm Pháp).
Nếu tất cả mọi người trên thế giới đều thực hành điều này thì thế giới
này đáng sống hơn nhiều.
Trạng thái nội tâm của ta được biểu hiện qua cảm xúc,
phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Suy tư cũng là một sự
xúc chạm giác quan. Ý nghĩ bất thiện sinh ra các cảm thọ bất thiện, như
là khó chịu, bực bội. Thấy, nghe, nếm, ngửi, chạm là năm ngoại giác
quan. Tư duy là giác quan bên trong. Tất cả khi xúc chạm, đều tạo ra cảm
giác. Kia là mắt và đối tượng của mắt. Khi cả hai đều tốt đẹp, nhãn
thức phát sinh và kết quả là cái thấy. Nhãn căn, nhãn trần và nhãn thức
tụ hội. Khi ta biết đó là cách bản thể này, mà ta gọi là “tôi”, hoạt
động, chúng ta có thể dừng lại những chương trình đã được cài đặt sẵn
trong tâm, luôn luôn phản ứng cùng một cung cách. Bởi thế không khó đoán
người ta sẽ phản ứng như thế nào đối với một sự kích động quen thuộc
nào đó, vì chương trình cài sẵn của họ chưa được thay đổi. Để dừng
chương trình đó lại, trước hết ta phải biết có một chương trình, và nó
bao gồm những gì.
Thí dụ, với nhĩ căn, là ống tai; rồi có âm thanh. Khi
nhĩ thức phát khởi, vì cả căn và trần đều có mặt, ta có cái nghe, và từ
cái nghe, cảm xúc phát khởi. Tai chỉ có thể nghe âm thanh, mắt chỉ có
thể thấy màu sắc, hình thể. Còn tâm làm tất cả những thêm thắt, giải
thích. Mỗi người lại có sự giải thích khác nhau, nên không ai thấy hay
nghe bất cứ điều gì giống nhau.
Thí dụ, khi một người nam thấy một phụ nữ, có sắc vóc,
tâm anh ta nghĩ, “Cô ta đẹp quá, mình phải lấy cô ta mới được”. Khi tôi
nhìn cũng người phụ nữ đó, tôi hoàn toàn không có bất cứ ý nghĩ gì giống
như thế. Vậy mà mọi người đều cố gắng để thuyết phục người khác rằng
cái họ thấy, nghe là đúng nhất. Nhưng vì thường họ không thể thuyết phục
người khác, nên họ bắt đầu bắn, giết người khác.
Suy nghĩ cũng là một xúc chạm của giác quan. Ta có ý căn
và tưởng. Tâm thức phát sinh, tiếp xúc với ý nghĩ và tư duy bắt đầu. Từ
đó cảm xúc phát khởi. Nếu ta nghĩ mình thương yêu mọi chúng sanh, thì
dầu ta có thực sự làm được hay không, chắc chắn ta cũng có một cảm giác
ấm áp, dễ chịu phát sinh từ ý nghĩ đó.
Tương tự, nếu ta thấy ghét ai đó, thì ta có cảm giác
lạnh lùng, xa cách. Sau đó là phản ứng đối với cảm giác, hoặc là
muốn/ước ao hay không muốn/xua đẩy. Khi chú tâm quán sát bản thân, chúng
ta có thể trải nghiệm điều đó thật rõ ràng. Chính phản ứng đối với cảm
xúc là cửa ngõ để vào tính nhị nguyên và khổ lần nữa. Nhưng đồng thời nó
cũng chỉ cho ta cửa ra khỏi mọi phiền não.
Nếu một lần nào đó ta không phản ứng, nhưng biết rõ cảm
giác chỉ là cảm giác, nếu ta có thể làm được như thế, thì chánh niệm đã
được thiết lập. Ta cũng khởi lòng tin là ta có thể làm được như thế lần
nữa, và đang thực sự thực hành thanh tịnh hóa tâm linh. Đó là một sự
thuyết phục nội tại quan trọng. Đức Phật dạy rằng, chúng ta cần cả hai,
học và hành. Văn (học) giúp ta biết Phật dạy những gì. Nhưng nếu ta
không thực hành thì ta giống như con vẹt hay giả đạo đức, nói những điều
mình không có chút kinh nghiệm tự chứng nào.
Qua sự thực hành chánh niệm, chúng ta trở nên ý thức đến
các cảm xúc phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Cảm xúc lúc
nào cũng có mặt, chúng cần được nhận diện để ta có thể chuyển hóa cách
sống theo bản năng thành cách sống có chủ đích của một con người. Theo
bản năng, ta luôn là người phản ứng. Có chủ đích, ta trở thành người tạo
dựng.
Có lẽ bài học quan trọng nhất ta cần học là luôn duy trì
chánh niệm trong tất cả mọi hoạt động hàng ngày. Ta có thể thực hành
dầu bất cứ ở đâu: tại nhà, ở chợ, nơi làm việc, lúc viết thư, điện
thoại, bất cứ làm gì, bất cứ lúc nào. Thiền cho ta động lực, giúp ta
tỉnh thức để tháo gỡ mọi chướng ngại ẩn tiềm trong các quan điểm của
mình. Ta không thể thấy cái tổng thể, chỉ thấy từng bộ phận. Ta thấy
những gì quanh ta, nhưng không thể thấy xa hơn nữa. Với chánh niệm,
dường như có cánh cửa mở, khi mọi thứ đều có chỗ nhất định và đều liên
kết với nhau. Ta buông bỏ được cảm giác về sự quan trọng của một cái ngã
được thổi phồng, và có thể liên kết nhiều hơn với tất cả mọi hiện
tướng. Tất cả những thứ này vẫn còn là thứ phẩm, là vấn đề bên lề. Chánh
niệm thực sự nghĩa là biết. Khi ta biết và thực sự trải nghiệm, dần dần
bản thân ta có thể chứng nghiệm được Tứ diệu đế. Lúc đó công việc của
ta hoàn mãn.
Một trong những yếu tố của chánh niệm là khả năng đạt
được nhất tâm. Chúng ta không trở nên phóng dật hay mù mờ, mà có thể giữ
tâm ở vị trí của nó. Chúng ta phải ý thức rằng những chướng ngại của
tâm là một bi kịch của con người, không phải bi kịch của cá nhân nào. Sự
hiểu biết này giúp ta chịu đựng một cách nhẫn nại và chuyển hóa dần
dần.
Ni sư AYYA KHEMA
Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)
Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)
|
No comments :
Post a Comment