Ngày Tết theo truyền thống
dân Việt là dịp sum họp gia đình, họ hàng. Dù đi đâu hay có bận gì thì
tới ngày Tết con cháu trong nhà cũng dành vài ngày để quy tụ về nhà ông
bà, cha mẹ, nhà từ đường cùng nhau ăn Tết, chúc xuân, thăm hỏi và hàn
huyên chuyện trò.
Thôi thì mình cũng “trước sao sau dậy,” theo tục lệ mấy ngày Tết cùng
nhau đón xuân, ăn mứt, uống trà và mạn đàm chuyện đời, chuyện đạo cho
vui! Người viết đã pha bình trà rồi, lại còn có mứt nữa. Bây giờ mình
bắt đầu câu chuyện đầu năm đi nha.
Theo âm lịch, năm nay là năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà làm được
một việc lợi lạc mà những con khác trong mười hai con giáp không làm
được là đánh thức nhân gian bằng tiếng gáy lúc gần sáng. Ở miền quê Việt
Nam ngày xưa, mà có lẽ ngày nay cũng thế, khi mà người dân quê ít ai
canh đồng hồ báo thức để dậy sớm đi cày cấy, đi làm lụng, đi buôn bán
tảo tần thì tiếng gà gáy sáng chính là đồng hồ báo thức chính xác và hữu
ích nhất.
Trong lúc mọi người đang ngủ say thì tiếng gà gáy thức tỉnh họ dậy,
kéo người ta ra khỏi mộng mị của cuộc đời để trở về với thực tại cuộc
sống. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:
“Gió đưa cành trúc là đà
Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương.”
Người mình xem tiếng gà gáy báo thức sang canh như tiếng chuông Chùa
Linh Mụ thức tỉnh lúc gần sáng. Như vậy, con gà ngoài việc cống hiến
trứng và thịt cho con người ăn còn giúp người ta tỉnh giấc mộng đời. Hữu
ích lắm chứ!
Xin nói thêm về con gà một chút để biết cho vui. Theo tự điển bách
khoa mở Wikipedia, thì con gà là loài gia súc có mặt sớm nhất tại Đông
Nam Á và tại Ai Cập gà được biết tới rất sớm vào khoảng 15 thế kỷ trước
công nguyên. Vào năm 2011, dân số gà nhiều hơn gấp 2 lần dân số loài
người, với 19 tỉ con gà sống trên trái đất.
Nhưng, nói đến tục lệ đón xuân của người Việt thì người viết chịu
nhất là chuyện làm mới mọi thứ từ tâm đến thân, từ trong nhà ra ngoài
đường, đâu đâu cũng mới, cũng đẹp. Để đón xuân, người Việt mình chuẩn bị
nhiều thứ, sơn sửa, quét dọn, lau chùi, trang hoàng nhà cửa từ trong ra
ngoài. Lại còn sằm sửa đồ đạc, mua hoa quả bánh trái, rim mứt để cúng
Phật, cúng ông bà trong ba ngày Tết. Và đối với bọn con nít thì háo hức
se sua quần áo mới để mặc đi chơi Tết. Đặc biệt, trong ngày Mùng Một Tết
thì tục lệ nước mình rất kỹ lưỡng, rất tinh tế, từ việc giữ gìn lời ăn
tiếng nói đến việc đi chùa lễ Phật trong ba ngày Tết để thân tâm đều
trong sạch mà chiêu cảm phước lạc cho cả năm.
Lúc nhỏ thì không hiểu, nhưng khi lớn lên, học được Phật Pháp thì
người viết nhận thức tục lệ sửa soạn và làm mới thân tâm trong ngày Tết
là điều rất hay, rất hữu ích. Qua đó, ít nhất, một năm người mình cũng
có một cơ hội để tu sửa thân tâm, nhất là tu sửa cái tâm mình để sao cho
không nghĩ, không nói và không làm điều gì bất lợi cho mình và người.
Đó chính là thực hành theo lời Phật dạy là chuyển hóa chánh báo (thân
tâm) và y báo (hoàn cảnh sống chung quanh, gia đình và xã hội) bằng cách
chuyển hóa ba nghiệp (tức hành tác của thân, miệng và ý) theo điều
thiện. Đó cũng chính là làm đúng theo đạo lý nhân quả, tạo nhân lành để
có quả lành. Nếu chỉ biết cầu mong điều tốt đẹp mà không làm gì để tạo
nhân lành thì không thể có kết quả lành đến với mình. Khoa học và thực
tế lắm chứ, không mê tín dị đoan chút nào. Nếu mỗi ngày cũng làm mới
thân tâm như ngày Tết thì chắc chắn sẽ có nhiều kết quả lợi lạc hơn rất
nhiều.
Ở Quận Cam của Tiểu Bang California, Hoa Kỳ, nơi có đông đảo người
Việt định cư nhất tại hải ngoại, vào dịp cuối năm âm lịch phố xá cũng
tưng bừng vào những ngày mua sắm đổ Tết. Ở đây không thiếu thứ gì, từ
hoa quả bánh trái, rim mứt, và những món ăn truyền thống dân tộc. Dường
như ở đây, những ngày cận Tết thì có không khí Tết hơn là chính mấy ngày
Tết.
Người viết mấy năm nay cứ vào đêm Giao Thừa là đến các chùa tại
Little Saigon để làm tin, làm phóng sự cho báo. Nhộn nhịp, vui vẻ và có
không khí Tết nhất là đêm Giao Thừa tại các chùa. Chùa nào cũng đông
người đi lễ Phật, đi coi văn nghệ và đốt pháo. Vì an ninh, các chính
quyền thành phố chỉ cho đốt pháo tại một số chùa có xin phép, nên rất
đông người, nhất là giới trẻ là những người ghiền đốt pháo Tết, tập
trung về các chùa có đốt pháo để “ăn ké.” Có chùa vào giờ Giao Thừa từ
trong chánh điện ra tới ngoài đường người đi không có chỗ chen chân.
Đúng là đông như ngày hội Tết! Tất nhiên hễ có đông người tụ hội thì
không sao tránh khỏi những điều phức tạp. Có chùa than phiền về tình
trạng người đi lễ đầu năm bứt bẻ cây cảnh để làm lộc đầu năm khiến cho
cây kiểng trong chùa xác xơ tan nát, nên các chùa đã chuẩn bị thật nhiều
trái cây như cam quýt hoặc những cành mai, hoa đủ thứ và cả bao lì xì
để tặng người đi lễ chùa làm lộc mang về đầu năm.
Ấy vậy mà sao có người đòi bỏ đi tục lệ đón xuân ý nghĩa và cao đẹp
này? Thật là mười phần không nên. Nếu sợ tốn kém, phung phí thì chỉ nên
giảm bớt ngày nghỉ lễ Tết không để kéo dài quá lâu làm hãng xưởng, công
sở bị thiệt hại và ảnh hưởng tới nền kinh tế cả nước thôi. Nhưng đó là
chuyện ở trong nước, còn ở hải ngoại thì ngày Tết Việt Nam không ảnh
hưởng tới công sở Mỹ, có chăng là một số cơ sở kinh doanh của người
Việt, mà cũng chỉ cho nghỉ vài bữa chứ không lâu lắm.
Năm mới, ai cũng mong điều tốt đẹp sẽ đến, nhất là trong bối cảnh
nhiều bất an của thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Truyền thông
ngày nào cũng tràn ngập những tin tức về Nhà Nước Hồi Giáo (IS) và khủng
bố al-Qaeda mở mặt trận quy mô ở Syria, Iraq, vừa rình rập từng cơ hội
để nổ bom, bắn giết nhiều người trên khắp thế giới từ Âu Châu sang Mỹ
Châu. Hàng triệu di dân tại Trung Đông và Bắc Phi tràn qua Châu Âu gây
khủng hoảng an ninh, kinh tế, xã hội chưa từng có và tạo dây chuyền bất
ổn đến các nước khác trên thế giới. Chưa hết, còn chủ nghĩa dân tộc tả
phái, hữu phái cũng đang vùng dậy, qua hình ảnh của một Tổng Thống Nga
Vladimir Putin, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng Thống Philippines
Rodrigo Duterte, và mới đây Tổng Thống Mỹ Donald Trump. Thêm vào đó là
các chủ trương bảo hộ mậu dịch về kinh tế góp phần tạo mối de dọa đến
các thành quả có được của toàn cầu hóa trong mấy chục năm qua. Trật tự
thế giới đang bị những nhà chủ nghĩa dân túy đó sắp xếp lại theo chủ
thuyết riêng của họ mà chẳng nghĩ gì tới sự an nguy của toàn nhân loại.
Thực trạng của một đất nước Syria tan nát, một Châu Âu đầy bất trắc, một
Trung Mỹ chao đảo, một Biển Đông của Thái Bình Dương dậy sóng là các hệ
quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Và chắc chắn sẽ còn nhiều bất an
nữa sẽ diễn ra trên hành tinh này trong những năm tháng tới!
Không chỉ có chừng đó bất an, thế giới này và đặc biệt ngay trên quê
hương Việt Nam tình trạng biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi sinh đã và
đang đem tới nhiều thiệt hại to lớn về nhiều mặt, từ kinh tế, xã hội tới
an ninh, sức khỏe và đời sống của con người. Thảm họa mực nước biển
dâng cao xâm thực làm thiệt hại việc canh tác tại đồng bằng lưu vực Sông
Cửu Long; vụ thải chất độc xuống biển của công ty Formosa tại Hà Tĩnh
làm cá chết hàng loạt, gây ô nhiễm vùng nước biển, khiến cho hàng triệu
người dân nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam lâm vào tình cảnh điêu đứng khổ
sở!
Chắc có người sẽ nhíu mày cho rằng bộ hết chuyện nói rồi chăng, sao
ngày Tết ngày Nhứt mà lại đem ba cái chuyện không vui này ra nói!
Thưa, trên đời, đã có chuyện vui thì ắt có chuyện không vui. Nhất là
người con Phật thì ý thức rõ điều đó hơn ai hết. Và nếu đã thích vui thì
cũng phải chấp nhận cái không vui, vì đó là hai mặt của cuộc đời luôn
luôn cùng hiện hữu. Không ai có thể chỉ muốn có điều vui không thôi mà
không nhận điều không vui được. Dù mình có phủ nhận, có từ chối, có trốn
chạy cái khổ thì nó vẫn sờ sờ ra đó, ngay trong nhà mình, trong cuộc
sống mình, trong thân tâm mình. Trong thế giới tương quan duyên khởi này
có không, sinh diệt, khổ vui cùng nương nhau mà tồn tại, khi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không.”
Bởi thế chúng ta mới đi theo đức Phật, mới đến với đạo Phật để học và
tu sao cho đạt tới mở mang trí tuệ để nhìn rõ bản chất các pháp và biết
cách trực diện để chuyển hóa chứ không trốn chạy nữa. Khi làm được vậy
thì mới mong giải thoát khổ đau.
Trong mấy ngày Tết tạm được nhàn hạ một chút, người con Phật cũng nên
suy nghiệm là chúng ta có thể làm gì để góp phần giải quyết các nan đề
của nhân loại nói chung và ngay chính cuộc sống của mỗi người chúng ta
nói riêng? Từ vấn đề đó dẫn chúng ta đến hai vấn đề khác là, một, có
phải người Phật tử là nên tránh xa những chuyện đời như thế để chỉ lo tu
hành thôi; và hai, trong Phật Giáo có giải pháp cho những vấn đề như
thế?
Nãy giờ nói chuyện cũng hơi lâu, bình trà đã pha tới nước thứ ba rồi.
Nước trà đã lạt, hết ngon. Xin cho phép vài phút để người viết pha lại
bình trà khác uống cho đậm đà, nha quý vị. À, nói chuyện say mê đến quên
thưởng thức món mứt gừng vừa cay, vừa ngon miệng rồi. Trong lúc chờ pha
bình trà khác, xin mời chư vị ăn mứt để biết hương vị Tết Đinh Dậu mặn
mà cỡ nào!
Bây giờ chúng ta lại vào chuyện tiếp. Được rồi chứ!
Thật ra, sự tồn tại và phát triển của Phật Giáo trên thế giới hơn hai
ngàn rưởi năm và tại Việt Nam hơn hai ngàn năm đã là câu trả lời thật
rõ ràng cho chúng ta đối với những vấn đề vừa được nêu ra. Tại sao? Bởi
vì, nếu Phật Giáo không có khả năng, không đóng góp được gì cho nhân
loại và cho đất nước Việt Nam thì Phật Giáo đã không được nhân loại và
dân tộc Việt đón nhận một cách trân quý và nhiệt thành như chúng ta đã
và đang thấy suốt chiều dài lịch sử trên hai mươi lăm thế kỷ qua.
Trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, có mặt vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ 2
sau tây lịch tại Giao Châu, tác giả Mâu Tử -- một tri thức Tàu tị nạn
tại Giao Châu và rồi chống lại quan điểm cho rằng nước Trung Hoa là
trung tâm của trời đất -- khi bàn về đạo hiếu trong Phật Giáo có nói
rằng đạo lý đó không phải là lý thuyết suông mà là “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài xã hội thì cứu dân độ thế, khi ngồi một mình thì tu thân”.
Đúng vậy, trên thực tế Phật Pháp không chỉ là lương dược trị bệnh
thân tâm cho cá nhân con người mà còn là giải pháp hữu hiệu để trị quốc
an dân. Điều này đã được lịch sử chứng thực qua việc đem giáo pháp Phật
để bình trị thiên hạ một cách thành công của Vua A Dục ở Ấn Độ, Vua
Lương Võ Đế ở Trung Hoa, các vua triều đại nhà Đinh, Lê, Lý, Trần của
Việt Nam, v.v… Gần đây nhất là cuối năm 1999, Liên Hiệp Quốc cũng đã ra
Nghị Quyết lấy giáo pháp từ bi và hòa bình của đức Phật để xoa dịu và
hóa giải những bất an, bạo động và khủng hoảng trên thế giới. Cũng nhân
Nghị Quyết đó, Liên Hiệp Quốc mới đặt ra việc tổ chức Đại Lễ Vesak, kỷ
niệm ngày Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn của đức Phật hàng năm.
Hãy nói chuyện ở nước mình cho dễ thấy. Rằng, nếu mọi người từ dân
đến quan đều thực hành lời Phật dạy một cách hữu hiệu, giữ gìn Năm Giới,
bỏ bớt tham sân si, thực hiện lòng từ bi thương yêu lẫn nhau [từ bi],
biết nghĩ cho người khác [lợi tha], vận dụng được phần nào tiềm lực trí
tuệ ngay trong chính mỗi người [trí tuệ], thì sẽ mang lại biết bao lợi
lạc cho mình, cho người, cho đất nước và dân tộc. Đừng nói đâu xa chỉ
xin nói một chuyện là mỗi người dân, mỗi ông quan có thể bỏ bớt lòng
tham chiếm hữu của cải của người khác, không trộm cắp của người, của
công, giữ lòng thanh bạch thì đã có thể tránh được đại nạn tham nhũng,
bốc lộc và hà hiếp dân lành. Ngay như chuyện Fomorsa còn mới tinh trước
mắt, suy cho cùng căn nguyên sâu xa nhất cũng là từ lòng tham của con
người mà ra, phải không? Còn gì nữa chứ! Thì do lòng tham mà các quan có
trách nhiệm đã mắt nhắm mắt mở dễ dãi thông qua kế hoạch để nhận hầu
bao, do tham lợi mà mờ mất lương tri không nghĩ tới hậu quả tai hại cho
người khác, do tham lam mà quên mất việc làm của mình sẽ dẫn tới thiệt
hại lớn lao và lâu dài cho môi trường sống của muôn vạn người dân, v.v…
Người viết có cảm nghĩ dường như người con Phật ngày càng có khuynh
hướng sống và cho rằng người tu Phật thì không nên can dự vào chuyện
đời, nhất là chuyện “chính trị chính em,” thì phải!
Xin nhớ rằng, Phật Giáo sở dĩ được các dân tộc bản điạ đón nhận một
cách hoan hỷ và xem như là một bộ phận gắn bó của dân tộc đó, như ở nước
ta, chẳng hạn, hay có câu nói “đạo pháp và dân tộc như nước với sữa,”
là vì Phật Giáo, ngoài việc tự tu tự độ, còn làm được rất nhiều việc lợi
lạc cho con người và xã hội, kể cả chuyện trị quốc an dân.
Nhân chuyện này, chúng ta cũng nên chiêm nghiệm lại vấn đề rằng là,
tại sao hậu thế ngày nay khi nhắc đến công hạnh cống hiến cho quốc gia
xã tắc của các vị thiền sư Việt Nam thời Đinh, Lê, Lý, Trần như Thiền Sư
Khuôn Việt, Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền Sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, Sơ Tổ
Thiền Phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông, v.v… thì không tiếc lời tán dương,
ca ngợi, nhưng lại chê trách việc dấn thân hộ quốc an dân của người con
Phật thời nay? Chẳng lẽ những việc quý ngài thời đó làm lại không liên
quan đến chuyện chính sự hay sao!
Bình tâm mà xét, chúng ta có thể thấy rằng, ngoài việc đóng vai trò
giữ vững ngọn đèn Chánh Pháp, nỗ lực hoằng pháp lợi sinh, người con
Phật, cũng cần đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước và
xã hội ở nhiều bình diện khác, gồm cả chính trị. Ở đây, chư vị xuất gia
vì đời sống tu hành xuất thế không tiện tham gia vào chính sự thì có
thể góp phần vào công cuộc giáo dục quần chúng, giáo dục tuổi trẻ, gây ý
thức, truyền trao kiến thức để những người Phật tử tại gia này trực
tiếp đóng góp vào việc trị quốc an dân. Cũng xin nhắc lại rằng, ngày xưa
tại nước ta khi chưa có hệ thống giáo dục nhà nước để đào tạo nhân tài
ra giúp nước, thì chùa chiền là nơi đảm nhận vai trò giáo dục quốc dân,
mà bằng chứng lịch sử rõ nhất là triều đình Nhà Đinh đã cử Thiền Sư Đỗ
Pháp Thuận giả làm gã chèo đò để tiếp đón sứ giả Nhà Tống là nhà thơ Lý
Giác đi sứ sang Việt Nam; hoặc Vua Lý Công Uẩn được Thiền Sư Vạn Hạnh
nuôi dạy trong chùa rồi cho ra làm quan tới chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ
trong triều đình Nhà Lê nên mới có cơ hội làm cách mạng để lập ra Nhà
Lý.
Tất nhiên, đó không phải là chuyện dễ thực hiện. Xin nêu ra hai cái
khó. Trước hết, Phật Giáo Việt Nam hiện tại trong nước vẫn chưa có các
trường trung tiểu và đại học được nhà nước công nhận để thực hiện việc
giáo dục tuổi trẻ hữu hiệu. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điều có thể làm
được như biến nhà chùa thành cơ sở giáo dục nhiều mặt, có thể là nơi dạy
kèm sau giờ học, là nơi giúp dạy nghề nghiệp, dạy ngoại ngữ, dạy sử
dụng máy điện toán, v.v… Chùa cũng có thể lập các tủ sách, hay quy mô
hơn thì lập thư viện, tùy theo điều kiện cơ sở vật chất, tài chánh và
nhân sự của chùa. Lập được thư viện ngay trong chùa là điều lý tưởng vì
vừa giúp các em có sách vở tham khảo, học hành, vừa khuyến khích các em
nói riêng và quần chúng nói chung tham gia vào công cuộc đọc sách để vực
dậy phong trào đọc sách trên cả nước. Đây là công tác có hiệu quả dài
hạn, bởi vì đó là cách bồi đắp nền dân trí của quốc dân thực sự. Khi dân
trí cao thì đất nước dễ tiến bộ và phát triển.
Cái khó thứ hai là dù người Phật tử tại gia có quy y có thọ năm giới,
có học Phật Pháp, có Thầy bổn sư dạy dỗ, nhưng khi tham gia vào guồng
máy chính trị điều hành đất nước thì chưa chắc giữ được đạo tâm và làm
được những gì đã học từ trong chùa, bởi vì khi vào đó thì rất dễ bị lợi
danh, quyền hành lôi kéo và khó giữ sạch mình. Đây không những là thực
tế xã hội mà còn là nan đề của Phật Giáo Việt Nam. Các Phật tử có tâm có
tu thì không thích dấn thân vào chính sự, còn các Phật tử xông pha vào
chính trường thì thường, chứ không dám nói là hết tất cả, bị “bác phong
xuy động,” rồi đánh mất sơ tâm của mình. Đây là thiếu sót của phương
thức giáo dục hay là “bản chất nan di” của con người dù là người con
Phật?
Nói tới chuyện này, chúng ta cũng cần quan sát hiệu quả của công tác
hoằng pháp, hướng dẫn quần chúng Phật tử sao cho công tác Phật sự mang
lại thành quả thực sự. Chẳng hạn, trong một khu phố, trong một ngôi
làng, hay rộng hơn trên bình diện cả nước nếu chúng ta thường tự hào tỉ
lệ Phật tử trong dân số chiếm phần đông nhưng thực tế xã hội ngày càng
có nhiều tệ nạn, tệ đoan, tội ác, bất an lan tràn, thì phải xét lại
phương thức góp phần xây dựng con người và xã hội như thế có phù hợp
không, có hiệu quả không.
Còn nữa, người con Phật làm sao để hình ảnh của đức Phật, của Phật
Giáo luôn luôn thân cận, hòa đồng với dân tộc, với đất nước, đừng biến
đức Phật thành vị thần thánh chỉ biết ngồi trên cao ban phước giáng họa
và cũng đừng biến Phật Giáo thành một tôn giáo xa cách với đồng bào Phật
tử. Hai hình ảnh dễ thấy nhất là vị Tăng Sĩ và ngôi Chùa. Ở giữa cộng
đồng dân chúng nghèo khổ, đói rách, cơ cực không thể có hình ảnh một vị
Tăng Sĩ giàu sang quyền quý và một ngôi chùa đồ sộ nguy nga với những
mảnh giấy xác lập kỷ lục chùa to, Phật lớn. Những hình ảnh đó chắc chắn
không những biến Phật Giáo thành một ốc đảo giữa nhân gian, mà còn làm
đau lòng những người con Phật hiểu biết Chánh Pháp!
Thực tế, con người, dù là người con Phật, khi đi vào đời để hành đạo,
nhất là hành đạo trong môi trường xã hội phức tạp, đặc biệt là trong
lãnh vực chính trị, thì rất dễ bị biến chất, bị tha hóa, bị thế tục hóa.
Chính vì vậy, Đại Thừa trang bị cho người thực hành Bồ Tát Đạo thật kỹ
lưỡng, thật nghiêm túc từ lý tưởng, phương thức cho đến nội lực từ bi và
trí tuệ. Hình ảnh của Thiện Tài Đồng Tử trong Phẩm Nhập Pháp Giới của
Kinh Hoa Nghiêm trên cuộc hành trình tầm sư học đạo và thể nghiệm Phật
Pháp, cũng như trang bị các kỹ năng của thế gian pháp cho thấy Đại Thừa
rất nghiêm cẩn đối với vấn đề đào tạo nhân sự đi vào đời làm việc đạo.
Để cuối cùng, Đại Thừa giới thiệu mẫu người đã thành tựu con đường tự
giác và giác tha là Cư Sĩ Duy Ma Cật, Cư Sĩ Thắng Man Phu Nhân là những
người Phật tử có đủ bản lãnh để xông vào cuộc đời làm mọi việc đời việc
đạo mà không bị tha hóa. Tất nhiên, những mẫu người như thế thì không dễ
tìm thấy nhiều trong suốt dòng lịch sử Phật Giáo thế giới. Nhưng mẫu
người lý tưởng đó không phải chỉ là cái hình ảnh biểu tượng chỉ để ngắm,
để tôn thờ và để mơ ước, mà trên thực tế cũng đã có những người con
Phật làm được tại Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… như được
nêu ra ở trên.
Nhắc đến Thiện Tài Đồng Tử thì cũng phải nhắc đến những bậc Thầy trác
việt của chàng thanh niên Phật tử này, mà hai trong số rất nhiều thân
giáo sư của Thiện Tài là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Văn Thù
là bậc đại trí tuệ đã chỉ dẫn cho Thiện Tài từ sơ cơ đến cứu cánh. Còn
Bồ Tát Di Lặc người đã khai thị cho Thiện Tài về tâm bồ đề. Người con
Phật hành Bồ Tát Đạo thì trước hết là phải phát khởi tâm bồ đề, là tâm
trên cầu thành Phật và dưới thệ nguyện cứu khổ chúng sinh. Muốn thành
Phật và cứu chúng sinh đều cần phải tu tập làm sao để xả kỷ, bỏ ngã
chấp. Tâm bồ đề chính là tâm vô ngã. Không có tâm bồ đề thì không làm
được việc lớn.
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ
Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai luôn luôn nở nụ cười
trên môi vì tâm ngài là tâm bồ đề, tâm giác ngộ, tâm giải thoát mọi khổ
đau. Chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngài đầu năm để học theo đại nguyện và đại
hạnh hưng phát tâm đồ đề của mình để làm cho mình có đủ nghị lực vượt
qua mọi khổ não của cuộc đời đầy bất an.
Lo đàm đạo hăng say quá mà quên cả bình trà pha lần thứ hai cũng đã
cạn. Thôi thì, xin dừng lại câu chuyện đầu năm ở đây để chúng ta cùng
pha trà, ăn mứt và tiếp tục đón xuân Đinh Dậu.
Kính chúc chư vị một năm mới tràn đầy sức khỏe, phước lộc và bình an.
Huỳnh Kim Quang
vietbao.com
No comments :
Post a Comment