Thời Phật tại thế, Tôn giả
A-nan được xem là người có khả năng
ghi nhớ toàn bộ những lời dạy của Đức Phật. Thẩm quyền đặc thù đó là do phước nghiệp của bản thân cộng với kết
quả của hai mươi lăm năm làm thị giả cho Đức Phật1.
Mặc dù vậy, mãi sau khi Đức Thế Tôn diệt độ và trước lúc cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất diễn ra, Tôn giả
A-nan mới chứng Thánh quả A-la-hán.
Từ trường hợp của
Tôn giả A-nan đã góp
phần cho thấy, quảng học đa văn chưa hẳn là yếu tố quyết định sự chứng ngộ của
một con người. Bởi lẽ ở thời Phật, đã có nhiều vị đệ tử, dù chỉ được nghe một câu kinh
ngắn, nhưng biết
nương đó hành trì thì vẫn có khả năng thể nhập Thánh đạo.
Căn cứ vào hiện trạng giáo dục của Phật giáo nói
chung và mục tiêu học tập của Tăng Ni trẻ Việt Nam hiện nay nói riêng, thì việc
nghiên cứu về hai trường hợp, từ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
(Cullapanthaka) và Lục tổ Huệ Năng, là những
khơi gợi bước đầu, trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp cân bằng giữa pháp học và pháp hành trong bối cảnh hiện tại.
Những tiền đề gợi mở từ kinh điển
Thời Phật, do
điều kiện đặc thù nên có những vị Tỳ-kheo không thể tham dự tất cả các pháp hội
do Đức Phật tuyên thuyết, có trường hợp, do khả năng chậm lụt không thể nhớ nhiều nên cầu thỉnh Đức
Phật chỉ cho một vài pháp yếu để hành trì.
Tiêu biểu cho
những trường hợp
nêu trên, là câu chuyện của Tỳ-kheo người Vajji được ghi lại trong kinh Tăng chi
(A.i,230), do
vì không thể thuộc 150 học giới, nên được Đức Phật khuyến nghị chỉ
cần học tóm tắt giới, định, tuệ thì cũng đủ điều kiện để đoạn tận tham, sân,
si. Kinh ghi:
1. Như vầy
tôi nghe.
Một thời Thế
Tôn trú ở Vesāli,
tại Ðại Lâm, chỗ giảng đường có góc nhọn. Rồi một Tỳ-kheo người Vajji đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỳ-kheo
người Vajji bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế
Tôn, hơn 150 học pháp này, nửa tháng một lần con phải tụng đọc, ở đây, con
không có thể học nổi.
- Này Tỳ-kheo,
Thầy có thể học ba học pháp không, tăng thượng giới học, tăng thượng định học,
tăng thượng tuệ học?
- Bạch Thế
Tôn, con có thể học ba học pháp, tăng thượng giới học, tăng thượng định học,
tăng thượng tuệ học.
2. - Do vậy,
này Tỳ-kheo, Thầy hãy học tập ba học pháp, tăng thượng giới học, tăng thượng định
học, tăng thượng tuệ học. Nếu Thầy học tập tăng thượng giới học, tăng thượng định
học, tăng thượng tuệ học. Này Tỳ-kheo, nhờ học tập ba học pháp này, tham sẽ đoạn
tận, sân sẽ đoạn tận, si sẽ đoạn tận2.
Trường hợp tương tự cũng diễn ra đối với Tỳ-kheo
Uttiya, kinh Tạp-A-hàm ở Hán tạng gọi là Uất-đê-ca (欝低迦)3. Theo
tự thuật của ngài Uttiya trong Trưởng lão Tăng kệ (Thera.5), sau khi xuất gia, ngài sống
buông lung nên mãi không đắc được Thánh quả. Thấy các Tỳ-kheo khác nói lên
chánh trí của mình, ngài xin Thế Tôn một bài học tóm tắt. Ðức Phật trả lời ngài
phải làm cho thanh tịnh nếp sống căn bản và ức Phật dạy ngài về nếp sống căn bản
một cách tóm tắt, Ittiya học tập bài học này, phát triển thiền quán, nhưng rồi
bị bệnh. Trong sự cố gắng tối hậu, ngài chứng được quả A-la-hán4.
Kinh Tương ưng (S.v,166) đã ghi lại nội
dung cuộc hội kiến giữa Tôn giả và
Đức Phật. Kinh ghi:
1) Nhân duyên ở Sāvatthi.
2) Rồi Tôn
giả Ittiya đi đến Thế Tôn; sau khi đến... Ngồi một bên, Tôn giả Ittiya bạch Thế
Tôn:
- Lành thay,
bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn
thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
- Như vậy,
này Ittiya, hãy làm cho thanh tịnh các pháp căn bản trong các thiện pháp. Thế
nào là các pháp căn bản trong các thiện pháp? - Giới khéo thanh tịnh và tri kiến
chánh trực.
3) Và này
Ittiya, khi nào ông
có giới khéo thanh tịnh, và tri kiến chánh trực; rồi này Ittiya, y cứ vào giới,
an trú vào giới, ông
hãy tu tập bốn niệm xứ5.
Có thể nói,
trong bối cảnh giới hạn về tri thức của bản thân, cộng với sự bức ngặt về thời
gian để sống cũng như
để tu tập, nhưng do biết lựa chọn phù hợp và tích cực thực hành pháp yếu,
nên đã có nhiều vị Tỳ-kheo chứng Thánh quả trong thời gian rất ngắn. Có những
trường hợp được nghe kinh buổi sáng thì có thể chứng ngộ vào buổi chiều6.
Đây là những sự thật có cơ
sở từ kinh điển và biểu hiện sinh động cho sự thật này, là câu chuyện của ngài
Châu-lợi-bàn-đặc
(Cūllapanthaka)
cũng như của Lục tổ Huệ Năng.
Vài nét về Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
(Cūlapanthaka)
Theo kinh Tăng chi (A.i,24), kinh Phật tự
thuyết (Ud.5), Chú giảng kinh Pháp cú, Trưởng lão Tăng kệ, Truyện
tiền thân (Jataka No. 4)... thì lược truyện về Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka) được kể như sau.
Ở thành Vương-xá
(Rājagaha),
có một tiểu thư con nhà danh giá đã phải lòng với người giúp việc (Dāsen), nên cả hai phải trốn
nhà ra đi do sự khắc nghiệt của chế độ tập cấp (Varna). Đôi vợ chồng trẻ
này sinh hạ được hai người con, người con cả tên là Mahāpanthaka và người con
út chính là Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka).
Vượt qua định
kiến của xã hội lúc bấy giờ, ông bà ngoại đã mở rộng vòng tay đón hai cháu về
nuôi dưỡng. Do vì ông bà ngoại thường đi lễ Phật nghe pháp ở tinh xá Vườn Xoài
của ngự y Jīvaka (Jīvakambavane) nên thường dẫn người anh lớn đã trưởng thành là Tôn giả Mahāpanthaka đi theo.
Cảm mến đời sống xuất gia nên Mahāpanthaka xin phép ông bà ngoại và cầu thỉnh Đức
Phật đáp ứng sở nguyện. Sau đó, Mahāpanthaka được chính thức xuất gia và do
siêng năng tu tập, ngài thành tựu quả vị A-la-hán.
Từ kinh nghiệm
bản thân, Tôn giả
Mahāpanthaka nghĩ rằng sẽ tốt hơn cho em mình nếu được an trú
trong đời sống giải thoát, nên đã khuyến hóa em đầu Phật xuất gia.
Khác với anh
mình, căn tánh của ngài Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka) rất mê mờ, ám độn, học trước quên sau.
Bởi lẽ, trong bốn tháng làm Sa-di tập sự, Tôn giả không thể nào thuộc được bài kệ ngắn,
như sự ghi nhận trong truyện Tiền thân (Jataka.4):
Như bông sen
thơm dịu,
Vào rạng
đông buổi sáng,
Hoa được nở
toàn diện
Với mùi
hương bát ngát.
Nhìn Đức Phật chói sáng
Với hào
quang chiếu diện,
Như mặt trời
rực sáng
Trên bầu trời
quang đãng7.
Sau nhiều trợ
duyên cần thiết nhưng không thành công, Tôn giả Mahāpanthaka nghĩ rằng,
sẽ tốt hơn cho em mình khi quay trở về đời sống thế tục, nên đã thẳng thắn đề
nghị:
- Này
Panthaka, em không có khả năng trong giáo pháp này. Bốn tháng trôi qua, em
không thể học thuộc lòng một câu kệ, làm sao em có thể đạt được sự nghiệp tối
thượng của người xuất gia? Hãy đi ra khỏi tinh xá8.
Thực lòng, Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
(Cūllapanthaka) rất muốn sống đời sống xuất gia, nên nước mắt lưng tròng khi
nghe lời anh giã từ tinh xá. Biết chuyện, Đức Phật đã cho gọi Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
(Cūllapanthaka) đến trước hương phòng, đưa cho Tôn giả một mảnh vải trắng sạch với lời dạy:
- Này Cullapanthaka, hãy hướng mặt về phía Đông,
dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói: Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi9.
(Cullapanthaka puratthābhimukho
hutvā imaṃpilotikaṃrajoharaṇaṃrajoharaṇa ti)10.
Từ một miếng vải
trắng sạch, nhưng sau khi sử dụng nhiều lần đã trở nên dơ bẩn. Thực tại này đã
giúp Tôn giả hình
thành nên suy nghĩ: Vừa rồi, tấm vải này rất là sạch sẽ. Nhưng này vì
bản thân ta, nó đã bỏ nguyên trạng của nó, và trở thành dơ bẩn. Thật sự các hành
là vô thường”. Ngay khi Cullapanthaka thông hiểu tính đoạn diệt, thiền quán được
tăng trưởng11.
Lúc ấy, Đức Thế
Tôn đã khéo léo dẫn dắt Tôn giả, từ nhận thức về sự dơ bẩn của mảnh vải đến chân lý của thực tại
là: tham, sân và si mới là bụi bẩn, cần phải loại trừ, được Ngài khái quát qua
ba vần kệ. Cuối bài kệ, Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka) liền chứng Thánh quả A-la-hán.
Có thể nói, với
Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka), xuất thân trong gia cảnh trái ngang, cùng với
túc nghiệp oan khiên nên căn trí chậm lụt12, mặc dù vậy Tôn giả đã ngộ đạo
trong một bối cảnh đặc thù. Do đó, trong kinh Tăng-chi, Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc
(Cūllapanthaka) đã được Đức Phật tán thán:
Này các Tỳ-kheo, trong những vị đệ tử Tỳ-kheo của ta
có tài về chuyển dịch tâm, tối thắng là Cūllapanthaka. (Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ cetovivaṭṭakusalānaṃ yadidaṃ cūḷapanthako)13.
Từ trường hợp của Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka), đã khẳng định khả tính giác ngộ luôn tiềm ẩn bên
trong mỗi người, và
đồng thời cho thấy tính ưu thắng
từ pháp hành mà Đức Phật đã tùy cơ chỉ dạy. Hơn mười thế kỷ sau, một trường hợp tương
tự như Tôn giả
Châu-lợi-bàn-đặc (Cūllapanthaka) được phát hiện, đó là câu chuyện của Lục tổ Huệ Năng (638-713).
Vài nét về Lục tổ Huệ Năng
Căn cứ vào Lục tổ đàn kinh, Tống cao
tăng truyện, quyển 8, Phật Tổ thống kỷ, quyển 29, quyển 41, Thích
thị kê cổ lược, quyển 3, Tào khê Đại sư biệt truyện, truyền pháp chánh tông ký, quyển 6, thì lược sử của Lục tổ Huệ Năng như
sau.
Thân phụ của
ngài Huệ Năng nguyên quán ở Phạm Dương, sau dời qua Lãnh Nam sinh sống. Ngài
sinh vào thời vua Đường Thái Tông (599-649), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 12
(638)14. Lúc ba tuổi thì mồ côi cha,
từ đó ngài cùng mẹ lớn lên trong tảo tần với nghề đốn củi. Một hôm, gánh
củi ra chợ bán, nghe tiếng tụng kinh thì tâm ngài liền khai ngộ15,
hỏi ra mới biết đó là kinh Kim cang. Mong muốn được thọ trì kinh này nên ngài được người hướng dẫn đến cầu pháp với Ngũ
tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, thuộc Kỳ Châu.
Nhân duyên hội
đủ, Huệ Năng diện kiến ngài Huệ Nhẫn ở Hoàng Mai, Ngũ tổ hỏi: Ông từ phương nào đến, và
muốn cầu thỉnh điều gì? Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu ở Lãnh Nam, từ xa
về lễ Tổ, chỉ cầu làm Phật chứ không mong gì khác”. Tổ nói: Ngươi dân
Lãnh Nam, ở chốn quê mùa thì làm sao kham thành Phật? Huệ Năng đáp: Người
tuy có Bắc-Nam, nhưng Phật tánh vốn không phân Nam-Bắc, thân quê mùa này cùng với
thân Hòa thượng
có gì sai khác? Và Phật tánh giữa con và Hòa thượng có gì sai biệt nhau?
Ngũ tổ muốn hỏi thêm nữa nhưng thấy bất tiện vì đồ chúng tề tựu xung quanh, nên
bảo Huệ Năng theo chúng làm việc16.
Tám tháng chấp
lao phục dịch trong chốn nhà trù nhưng ngài Huệ Năng không nề hà mỏi mệt. Một
ngày nọ Ngũ tổ bảo đại chúng mỗi người hãy trình một bài kệ để ngài khảo chứng tâm tư. Lúc này, chúng của Ngũ
tổ hơn bảy trăm, trong số đó có ngài Thần Tú là bậc giáo thọ, nên ai cũng nghĩ
chẳng cần phải trình kệ làm gì vì không ai có thể vượt qua được ngài Thần Tú.
Sau nhiều trầm
tư, nửa đêm
ngài Thần Tú tự mình
cầm đèn và viết lên bài kệ ở vách tường phía Nam với nội dung:
Thân như cây
bồ-đề,
Tâm như đài
gương sáng,
Luôn luôn phải
lau chùi,
Chớ để dính
bụi nhơ17.
(HT.Thích Thanh Từ dịch).
Sau khi nghe chúng nhân trì tụng bài kệ này, ngài
Huệ Năng ứng xuất một bài kệ, nhờ quan Biệt Giá viết lên vách tường phía Bắc.
Bồ-đề vốn
không cây,
Gương sáng
cũng chẳng đài,
Xưa nay
không một vật,
Chỗ nào dính
bụi nhơ18.
(HT.Thích Thanh Từ dịch).
Xem xong bài kệ
này, Ngũ tổ biết
tâm cơ của Huệ Năng đã đến thời khai ngộ, nên vào canh ba đêm ấy, đã biệt truyền kinh Kim cang
cho ngài. Trong khi tiếp thụ bản kinh này, khi nghe đến câu: Không nên trú
tâm, để tâm dính mắc, bất cứ pháp nào” (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm)19,
ngài liền đại ngộ. Ngay khi đó, ngài Hoằng Nhẫn đã truyền y bát và ký thác cho
ngài Huệ Năng thành Lục tổ.
Sau khi được
truyền y bát, Lục tổ Huệ Năng đã ẩn tích một thời gian. Theo Tào Khê Đại sư biệt truyện
thì ngài ẩn cư trong đám
thợ săn đến 5 năm. Vào niên hiệu Nghi Phượng nguyên niên, lúc này ngài Huệ Năng
đã 40 tuổi, đã
được Pháp sư Ấn Tông thế phát vào ngày 17 tháng Giêng. Vào ngày mùng 8 tháng Hai cùng năm, ngài được thọ Cụ
túc giới tại chùa Pháp Tánh (法性寺). Giới đàn do ngài Trí
Quang (智光) làm Hòa thượng đàn đầu, ngài Huệ Tĩnh
(惠靜) làm Yết-ma-a-xà-lê, ngài Đạo Ứng (道應)
làm giáo thọ A-xà-lê. Vào ngày mùng 8 tháng Tư niên hiệu Nghi Phương nguyên
niên (676), ngài chính thức khai pháp, giảng dạy chúng nhân suốt 36 năm. Khi cơ
duyên đã mãn, ngài ngồi yên mà hóa, thế thọ 76 tuổi20.
Có thể nói,
ngài Huệ Năng quả là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử Phật giáo Bắc truyền.
Tùy theo phương cách tiếp cận mà đã có những lý giải khác nhau về cuộc đời của ngài. Trong thư tịch
Hán tạng hiện còn nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau.
Khảo riêng về
phương diện lịch sử xã hội cho thấy, tuy xuất thân ở miền quê, không có điều kiện
đế tiếp xúc với tri thức, sách vở, do vì ngài không biết chữ. Nhưng trong nhịp
tất bật mưu sinh, ngài chợt nghe kinh Kim cang trong một lần vào phố thị
và đã
định tâm chuyên chú lắng nghe. Tống cao tăng truyện dùng cụm từ ngưng
thần (凝神) để chỉ cho trạng thái đó. Cũng bản
kinh ấy, nhưng qua sự triển khai của một bậc thầy có năng lực thực sự về tâm linh là
Hoằng NhẫnĐại
sư (601-676), nhất là ở câu: Không nên trú tâm, để tâm dính mắc, bất cứ pháp
nào” (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm)21ngài đã nhận ra
thực tướng của các pháp.
Khi đối chiếu với
kinh tạng Nikāya,
câu kinh này rất giống với ý kinh Trung bộ được ngài Xá-lợi-phất giảng cho cư sĩ Cấp Cô Độc
bên giường bệnh:
Này cư sĩ, hãy học tập như sau:
"Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ,
được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các
pháp (nói trên)". Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy22. (Tasmātiha te,
gahapati, evaṃ sikkhitabbaṃ - ‘yampi me diṭṭhaṃ sutaṃ
mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ
anupariyesitaṃ anucaritaṃ manasā tampi na upādiyissāmi,
na ca me taṃnissitaṃ viññāṇaṃ
bhavissatī’ti. Evañhi te, gahapati, sikkhitabba’’nti)23.
Sự khế hợp này,
chúng tôi sẽ trở lại trong một chuyên đề khác, nhưng qua đây, đã cho thấy rằng,
tuy chỉ một câu kinh nhưng khi được triển khai đúng lúc, thì có khả năng giúp
người mở con mắt tuệ (Dhammacakkhuṃ
udapādi).
Điều
khích lệ, và
cũng là bài học lớn nhất từ trường hợp của ngài Huệ Năng, đó là, quá trình ngộ
đạo tuy có trợ lực từ quảng
học đa văn, nhưng quá chú trọng đa văn, thì đôi khi dễ rời xa giác ngộ. Điều
này sẽ được thấy rõ khi tham chiếu vào phương châm giáo dục Phật giáo, cũng như
mục tiêu học tập của người xuất gia ngày nay.
Tìm kiếm giải pháp cân bằng giữa pháp học và pháp hành trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam hiện tại
Nguyên nhân mất cân đối giữa pháp học và pháp hành
Kể từ phong
trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX đến ngày hôm nay, chỉ xét riêng ở Việt
Nam, công bằng để đánh
giá thì trình độ tri thức Phật học trong tầng lớp xuất gia và kể cả hàng cư sĩ
đã tăng tiến đáng kể. Sự phát triển về tri thức Phật học đã đồng thời kéo theo
một diện mạo mới cho Phật giáo Việt Nam trên bản đồ Phật giáo thế giới. Tuy
nhiên, về phương diện pháp hành tu tập, khách quan để nhìn nhận
thì có sự thiếu vắng rất lớn về nhận thức, về khả năng hành trì cũng như các
trung tâm tu học xứng tầm. Nói rõ hơn, đã có một sự mất cân đối giữa pháp học
và pháp hành trong hiện tình Phật giáo Việt Nam hiện tại. Thực trạng mất cân đối
này, theo người viết, phát xuất từ những nguyên nhân cơ bản sau đây.
- Thứ nhất, hệ thống giáo dục tự viện chưa xác định
đúng mức về vai trò của pháp hành. Một kẻ ban sơ nhập đạo thường ấp ủ một chí
nguyện tươi sáng, thanh cao. Chí nguyện này vốn đã được thắp lên trong tâm người xuất gia trước đó, nhưng cơ chế
giáo dục tự viện ngày nay phần lớn không tiếp thêm được chất liệu để duy trì ngọn
lửa này. Vì lẽ, quỹ thời gian giáo dục tự viện không có nhiều, nhưng phải bị
chia sẻ trong việc học tập nề nếp thiền môn, làm kinh tế nhà chùa và
kiện toàn các kỹ năng phục vụ nhu cầu tâm linh cho quần chúng. Ngoại trừ ở một số tu viện, thiền viện dành sự
quan tâm và trang bị cho người
mới xuất gia về pháp hành, thì phần lớn các tự viện ngày nay chỉ tập trung vào
hạnh nghi cơ bản của bậc
xuất gia như bốn quyển luật, hai thời công phu, xem đó như pháp hành phổ quát.
Nội dung khảo thí trong các đại giới đàn gần đây đã góp phần chứng tỏ điều này.
Đây là một bất cập, góp phần tạo nên sự thiếu vắng pháp hành trong sinh hoạt Phật
giáo.
- Thứ hai, mục tiêu của các cấp giáo dục
ngày nay
chưa chú trọng pháp hành. Sự phát triển đa dạng về quy mô, loại hình và
phương thức
giáo dục Phật giáo ngày nay là một tín hiệu đáng mừng. Thành tựu của
ngành giáo
dục Phật giáo nói chung đã cung cấp nhân sự cho guồng máy Giáo hội, sản
sinh ra những nhà nghiên cứu, hoằng pháp, từ
thiện xã hội…với nhiều bằng cấp chuyên môn, có thẩm quyền và học vị, sẵn
sàng dấn
thân và đưa Phật pháp vào nhiều lãnh vực của đời sống. Nói cách khác,
giáo dục
Phật giáo ngày nay phần lớn chỉ nhắm tới mục tiêu độ tha và dường như bỏ
quên nội
dung tự độ là vấn đề pháp hành. Một vài tiết thiền học trong chương
trình đào
tạo cử nhân Phật học, chưa đủ làm ấm lên cánh đồng tâm vốn đã hoang lạnh
từ lâu của sinh viên Tăng, Ni. Việc lưu tâm và đôi khi quá nhấn mạnh
đến
vấn đề học hàm, học vị và địa vị, dù chỉ giới hạn trong địa hạt Phật
giáo, cũng
là một tác nhân góp phần làm cho người học lơ là với vấn đề pháp hành.
- Thứ ba, các
truyền thống sơn môn như các thiền viện, tu viện với pháp hành cụ thể, như hành
thiền, niệm Phật, trì chú…chưa đáp ứng đúng mức nhu cầu về pháp hành. Hiện tại,
rõ ràng và cụ thể hơn cả trong pháp hành là nội dung tu tập trong các thiền viện
theo truyền thống Trúc Lâm Yên Tử. Tuy nhiên, khảo từ thực tế cho thấy, các
trung tâm tu học này vẫn chưa thu hút được Phật tử ở mọi giai tầng, hàng xuất gia
phát nguyện chuyên tu và các giới Phật tử tri thức nước ngoài. Với các truyền thống
lấy việc niệm Phật
làm tôn chỉ hành trì, thì chỉ mới được chú trọng phát triển trong hơn
một thập niên gần đây và chưa đồng bộ về phương pháp. Thậm chí, một vài hành giả tiêu biểu của
pháp môn này,
đã có những phát ngôn chưa phù hợp với Thánh giáo. Bên cạnh đó, trong
vài năm
gần đây, đã có một vài dòng truyền thừa Phật giáo nước ngoài đã đem pháp
hành Mật giáo giảng dạy tại Việt Nam. Ở đây, sự thiếu cân nhắc, thẩm định về nguồn gốc của các dòng
truyền thừa này, cũng như nội dung truyền đạt, đã tạo nên những bất cập về pháp hành.
- Thứ tư, trong vài
năm gần đây, đã có nhiều bậc xuất gia và kể cả hàng tại gia cư sĩ, đã tự mình
tìm kiếm pháp hành từ băng đĩa, tài liệu; một vài trường hợp đã tự thân thực
nghiệm tại những trung tâm tu học, các dòng truyền thừa Phật giáo mang tính biệt
truyền ở nước ngoài. Tuy nhiên, do tự mày mò tìm hiểu, do quá nôn nóng thành tựu
về pháp hành, do muốn khẳng định với đệ tử, số đông nên đã tạo nên bức tranh lập
thể về pháp hành. Cụ thể, trong một số ngôi chùa và trung tâm tu học ở Việt Nam
hiện nay, đã có một sự hỗn dung nguy hiểm giữa Thiền học Phật giáo và Yoga của Ấn
giáo; đã có những khóa lễ dưới danh nghĩa Kim cương thừa nhưng mang nhiều màu sắc pha tạp
giữa Phật giáo và tín niệm đa thần; đã có những ngôi chùa mà người đứng đầu công khai sử dụng và ban
phát bùa chú nhằm
vào những mục đích khác nhau. Có trường hợp tuy mang hình thức cư sĩ
nhưng dám đứng ra chủ trì những nghi lễ đặc thù, mà trong số đồ chúng phía dưới
có cả hàng xuất gia. Có thể nói, xuất phát từ nhiều động cơ, cả tích cực lẫn
tiêu cực, một số ngôi chùa, các trung tâm tu học, cũng như các am, thất tự phát…
hiện nay đã có
những dấu hiệu lệch chuẩn về phương cách tu tập, hành trì.
Từ bốn lý do
nêu trên đã góp phần tạo nên những bất cập về pháp hành, và muốn hóa giải thực
trạng này, cần phải có những giải pháp ban đầu sau đây.
Những giải pháp gợi mở bước đầu
- Thứ nhất, phải tái xác định mục tiêu của
giáo dục
Phật giáo, bao gồm cả giáo dục tự viện cho đến đào tạo chuyên sâu. Phải
nâng tầm
trách nhiệm của mỗi vị trú trì trên mỗi ngôi tự viện, ngoài kiến thức
Phật học và kỹ
năng xã hội cần thiết,
thì cần phải am tường về một pháp hành cụ thể. Với chủ thể giáo dục và
đối tượng
giáo dục, cần phải xác định rõ mục tiêu chính yếu của mỗi phân ngành,
học để
nghiên cứu, học để giảng dạy, học để phụng sự Giáo hội, tha nhân, hay
học để nhằm
chuyển hóa nội tâm, dành cho tu tập. Tùy theo mỗi mục tiêu học tập mà
xây dựng
một nội dung đào tạo phù hợp và thích đáng. Sự thiếu vắng nhân sự trong
một số lãnh vực chuyên môn, mà ở đây là nhân sự có thẩm quyền về pháp
hành, hiện đang là một vấn nạn lớn. Mặt
khác, trong nội dung đào tạo ở ba cấp Phật học hiện nay, gồm sơ cấp,
trung cấp
và cử nhân Phật học, cần phải giới thiệu và tăng cường nội dung về các
pháp
hành truyền thống của Phật giáo Việt Nam, như Thiền, Tịnh và Mật. Phải
đảm bảo
rằng, về mặt lý thuyết, sau khi trải qua ba cấp học này, học viên có thể
tự chọn
cho mình một pháp hành tương thích với sở nghiệp.
- Thứ hai, cần
phải thấy rõ ràng, từ những thập niên sáu mươi của thế kỷ trước, các bậc
cao
tăng của Phật giáo Việt Nam như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Thanh
Từ, Hòa thượng Nhất Hạnh, Hòa thượng Thiền Tâm…đã thấy sự bất cập, trống
vắng về pháp hành trong
sinh hoạt thiền môn nên tự thân các ngài đã có những nỗ lực nhằm củng
cố, kiện
toàn. Thực tế cho thấy rằng, mặc dù các ngài không trải qua một quá
trình đào tạo
bài bản, chuyên sâu,
lâu dài như thế hệ Tăng, Ni có đầy đủ bằng cấp và học vị ngày nay; chỉ
với vốn
kiến thức Phật học căn bản, cộng với việc am tường một phần ngoại điển
Hán ngữ,
nhưng các ngài đã phục hoạt thành công các pháp hành mang tính tâm linh
truyền
thống. Di sản quý báu này cần được các thế hệ xuất gia ngày nay trân
trọng thừa tiếp, củng cố để
thích nghi và giới thiệu rộng rãi.
- Thứ ba, Phật
giáo Việt Nam hiện tại đã có những không gian tu tập rộng lớn ở cả ba miền. Nên
chăng, cần phải quy hoạch, tổ chức và trợ duyên cho những trung tâm tu tập ngắn hạn và dài
hạn, đáp ứng nhu cầu
thực nghiệm tâm linh cho cả hai giới tại gia và xuất gia. Hiện tại, hệ
thống thiền viện Trúc Lâm đã được trải đều trên cả nước. Đây là một tín hiệu
đáng mừng về sự phát triển của dòng thiền này nói riêng và truyền thống thiền tập
của Phật giáo Việt Nam nói chung. Song song bên cạnh đó, với thống kê sơ bộ cho thấy, sự có mặt
của nhiều Tăng, Ni và một bộ phận cư sĩ trí thức Việt Nam tại các trung tâm
thiền Vipassana trên thế giới, đã cho thấy sự thu hút của dòng thiền này. Do
vậy, nên chăng tiến tới thành lập các trung tâm thiền Vipassana mang tầm
quốc tế ngay tại Việt Nam. Ở đây, nếu như không đủ nhân sự và kinh nghiệm tổ chức,
thì cần có
những khuyến thỉnh, liên kết với các tổ chức Phật giáo đủ năng lực và kinh
nghiệm ở nước
ngoài để thành lập. Ngoài ra, từ mẫu hình thành công các khóa tu Phật thất, các
đạo tràng niệm Phật, các tự viện tiêu biểu theo truyền thống Kim cương thừa,
cần được quan tâm và hỗ trợ từ Giáo hội và chính quyền, để tạo nên nhiều lựa chọn
về pháp hành cho cả hai giới tại gia và xuất gia.
- Thứ tư, cần
phải thành lập cơ quan chuyên trách về tổ chức và quản lý. Vì lẽ, muốn thực tập
pháp hành cần phải có con người đủ thẩm quyền về pháp hành và trung tâm tu học
tương xứng. Việc tổ chức và quản lý những trung tâm chuyên tu đòi hỏi phải có nhân sự chuyên
trách. Hơn thế nữa, khi có những dấu hiệu lệch chuẩn về pháp hành từ những
cơ sở Phật giáo,
dù chính thức hay tự phát, thì cần phải có cơ quan chuyên trách của Phật
giáo có đủ năng lực để thẩm định và định hướng. Hiện tại, trong cơ cấu tổ chức của GHPGVN
chưa có một bộ phận chuyên trách về vấn đề pháp hành. Theo người viết, trong
hai cơ quan lãnh đạo tối cao của PGVN hiện nay24, cần phải phối hợp
và tổ chức một bộ phận chuyên trách về pháp hành, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Hội đồng Trưởng lão Tăng-già mà ở đây chính là Hội đồng Chứng minh. Bộ phận
nhân sự này không những có thẩm quyền về pháp hành mà cần trang nghiêm về đạo hạnh.
Kinh nghiệm tổ chức nhân sự của Phật giáo thời Lý-Trần, lấy việc nội chứng cũng như phẩm hạnh đạo đức
làm tiêu chí để lựa chọn, là một kinh nghiệm phù hợp với kinh điển và thực tiễn
tu học, dù ở bất cứ giai đoạn nào.
Kết luận
Khi quá chú trọng
đến sự phát triển của tri thức cũng như vận dụng toàn lực cho sự nghiệp độ tha, thì dễ
dàng bỏ quên một giá trị thiết thân mang tính tồn vong của Phật giáo, đó chính
là kinh nghiệm nội chứng. Muốn thành tựu nội chứng thì phải nương vào pháp
hành. Trong năm hạng người tham cứu kinh điển, thì hạng người biết sống theo
Pháp (Dhammavihara - A.iii,86)25, luôn được Đức
Phật tán thán.
Từ sự suy yếu của
Phật giáo ở thời kỳ Hậu Trần, là bài học kinh nghiệm sâu sắc có liên quan đến thực tiễn
tu học của Phật giáo Việt Nam ngày nay. Bởi lẽ, một khi quá chú trọng đến hình
thức, đến bằng cấp, đến học vị và địa vị, cũng như dành mọi quan tâm cho sứ mạng
độ tha, mà bỏ quên vấn đề tự độ, trau dồi phẩm hạnh, chuyển hóa nội tâm, là những
dấu hiệu cho thấy sự mất cân đối trong quá trình phát triển của một chỉnh thể
Phật giáo.
Qua câu chuyện
của Tôn giả Bàn-đặc và ngài Huệ Năng, đã góp phần chuyển tải một thông điệp
mang tích khích lệ: có thể thành tựu pháp hành, dù chỉ sở hữu một lượng tri thức
Phật học hữu hạn.
Chúc Phú
........................
(1) Kinh Tiểu bộ,
tập 3. HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr. 476.
(2) Kinh Tăng chi bộ, tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch,
Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.261-262.
(3) 大正藏第 02 冊 No. 0099 雜阿含經, 卷第二十四, 六二四.
(4) Kinh Tiểu bộ,
tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr. 212.
(5) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch,
Nxb.Tôn Giáo, 2013, tr. 579.
(6) Nguyên văn: Này
Vương tử, đừng nói chi một đêm ngày, một Tỳ-kheo thành tựu năm tinh cần chi
này, chấp nhận Như Lai là bậc lãnh đạo, nếu được giảng dạy buổi chiều thời chứng
được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự
thù thắng buổi chiều. Xem, kinh Trung bộ, tập 2, kinh Bồ-đề vương
tử, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr.123.
(7) Kinh Tiểu bộ,
tập 3. HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr. 42.
(8) Kinh Tiểu bộ, tập
3. HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr. 43.
(9) Kinh Tiểu bộ,
tập 3. HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.44.
(10) The Pāli Text
Society. The Jātaka together with its commentary, being tales of the
anterior births Gotama Buddha. Vol 1. Edited by V. Faus Boll. London:
Messrs. Luzac and Company, Ltd. 1962.
p.117.
(11) Kinh Tiểu bộ,
tập 3. HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.44.
(12) Trong kiếp quá khứ,
thời Đức Phật Kassapa, Tôn giả đã khinh bỉ một vị Tỳ-kheo đang cố học thuộc
lòng một đoạn kinh. Do nghiệp cũ đó nên kiếp này ngu si ám độn. Xem, Tích
truyện Pháp cú, tập 1, Viên Chiếu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr.266.
(13) Xem tại:
tipitaka.org
(14)大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第八, 唐韶州今南華寺慧能傳.
(15) Nguyên văn: 一聞經語,心即開悟. Xem,大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(16)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(17) Nguyên văn: 身是菩提樹,心如明鏡臺,時時勤拂拭,勿使惹塵埃. Xem,大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(18) Nguyên văn: 菩提本無樹,明鏡亦非臺,本來無一物, 何處惹塵埃. Xem,大正藏第
48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(19) Nguyên văn: 應無所住而生其心. Hòa thượng
Trí Quang dịch là: Hãy
đừng ở vào, bất cứ chỗ nào, mà sinh tâm ra.
(20) Xem,卍新續藏第 86 冊 No. 1598 曹溪大師別傳.
(21) Nguyên văn: 應無所住而生其心. Hòa thượng Trí Quang dịch là: Hãy đừng ở vào, bất
cứ chỗ nào, mà sinh tâm ra.
(22) Kinh Trung bộ, tập 2,
HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2012, tr.604.
(23) Xem tại: tipitaka.org
(24) Hai cơ quan đó là Hội
đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự.
(25) Kinh Tăng chi bộ,
tập 1, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb.Tôn Giáo, 2015, tr.685.
No comments :
Post a Comment